Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, việc xây dựng Luật Dẫn độ riêng là cần thiết. Luật mới không chỉ khắc phục bất cập hiện hành, mà còn góp phần khẳng định cam kết của Việt Nam trong phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia, đồng thời bảo đảm quyền con người theo Hiến pháp 2013.
1. Sự cần thiết ban hành Luật Dẫn độ
a) Từ thực tiễn áp dụng Luật Tương trợ tư pháp năm 2007
Sau hơn 15 năm triển khai thực hiện, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 đã bộc lộ những hạn chế bất cập cần được tháo gỡ, giải quyết, một số nội dung của Luật còn thiếu gắn kết và chưa đồng bộ với pháp luật tố tụng trong nước, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc giải quyết kịp thời các vụ việc dẫn độ. Ngoài ra, Luật Tương trợ tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu mới do sự phát triển trong từng lĩnh vực tương trợ tư pháp, thiếu những quy định cụ thể phù hợp cho từng lĩnh vực. Một số quy định của Luật Tương trợ tư pháp về dẫn độ chưa tương thích với pháp luật quốc tế, thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc chưa được nội luật hóa trong Luật Tương trợ tư pháp, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai tổ chức thực hiện.
b) Yêu cầu hội nhập quốc tế và tuân thủ điều ước quốc tế
Nhiều công ước quốc tế yêu cầu các quốc gia thành viên thiết lập cơ chế dẫn độ hiệu quả. Ví dụ:
- Điều 16 Công ước Palermo năm 2000 về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia quy định nguyên tắc “dẫn độ hoặc truy tố” (aut dedere aut judicare), nghĩa là nếu quốc gia không dẫn độ thì phải tự truy tố.
- Điều 6 Công ước Vienna năm 1988 về phòng, chống ma túy cũng đặt ra nghĩa vụ dẫn độ đối với hành vi phạm tội liên quan đến ma túy.
- Điều 3 Công ước chống tra tấn năm 1984 quy định: không được dẫn độ nếu có lý do xác đáng tin rằng người đó sẽ bị tra tấn ở quốc gia yêu cầu.
Một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (như Công ước Palermo 2000, Công ước Vienna 1988) chưa được nội luật hóa đầy đủ, dẫn đến khó khăn khi thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Những nghĩa vụ này đòi hỏi Luật Dẫn độ phải nội luật hóa đầy đủ, vừa bảo đảm tuân thủ quốc tế, vừa bảo vệ quyền con người.
c) So sánh pháp luật một số quốc gia
Tại Pháp: Bộ luật Tố tụng hình sự (Code de procédure pénale) quy định rõ: không dẫn độ đối với tội phạm chính trị; nhưng khủng bố và tội phạm chiến tranh không được coi là tội phạm chính trị.
Ở Đức: Luật Dẫn độ quốc tế (Gesetz über die internationale Rechtshilfe in Strafsachen, 1982) quy định cấm dẫn độ nếu có nguy cơ bị tra tấn, xử tử hình hoặc vi phạm quyền con người.
Ở Nhật Bản: Luật Dẫn độ (1953, sửa đổi 2003) quy định Tòa án Tối cao có thẩm quyền quyết định, đồng thời cho phép từ chối nếu hành vi mang tính chính trị.
Việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia phát triển sẽ giúp Việt Nam xây dựng Luật Dẫn độ vừa phù hợp thông lệ, vừa có tính khả thi cao.
Trước những yêu cầu mới phát sinh của quá trình hội nhập quốc tế, yêu cầu của hoàn thiện pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực tiễn công tác dẫn độ đặt ra yêu cầu cần thiết là phải xây dựng một Luật mới quy định về dẫn độ (Luật Dẫn độ), việc ban hành Luật Dẫn độ là thực sự cần thiết nhằm hoàn thiện pháp luật về dẫn độ theo hướng đồng bộ, hiện đại, bảo đảm chặt chẽ, khả thi, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế; thúc đẩy hợp tác quốc tế về dẫn độ, nâng cao hiệu quả truy bắt các đối tượng thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn ra nước ngoài; bảo vệ sự tôn nghiêm của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng như góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả và bảo đảm mục tiêu quản lý nhà nước trong lĩnh vực dẫn độ; tạo nền tảng cho việc ký kết và thực hiện các Điều ước quốc tế về dẫn độ.
2. Khái quát Dự thảo Luật Dẫn độ
Dự kiến Luật Dẫn độ sẽ được Quốc hội thông qua trong thời gian tới, hiện nay dự thảo Luật đang được lấy ý kiến rộng rãi. Về bố cục, Dự thảo Luật Dẫn độ dự kiến gồm 04 chương và 45 điều, trong đó, sửa đổi 19 điều, bổ sung 10 điều và cắt giảm 01 điều so với Luật TTTP trong lĩnh vực dẫn độ. Cụ thể như sau:
Chương I: Những quy định chung, gồm 17 điều (từ Điều 1 đến Điều 17).
Chương II: Dẫn độ từ nước ngoài về Việt Nam, gồm 08 điều (Từ Điều 18 đến Điều 25).
Chương III: Dẫn độ từ Việt Nam ra nước ngoài, gồm 18 điều (từ Điều 25 đến Điều 43).
Chương IV: Điều khoản thi hành, gồm 02 điều (Điều 44 và 45).
3. Một số vấn đề cần góp ý kiến nghị hoàn thiện Dự thảo
Để tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về dẫn độ. Trên cơ sở nghiên cứu dự thảo Luật, tác giả tham gia ra một số ý kiến đóng góp sau đây:
Thứ nhất, đề nghị bổ sung giải thích từ ngữ
Tại điểm m khoản 3 Điều Điều 33 của Dự thảo Luật có quy định về Giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ như sau:
“m) Cam kết người bị yêu cầu dẫn độ phạm tội hình sự thông thường, không phải là tội phạm liên quan đến chính trị.”
Tại điểm a khoản 2 Điều 41 của Dự thảo Luật có quy định về Tòa án nhân dân có thẩm quyền có thể từ chối dẫn độ nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“a) Tội phạm bị nêu trong yêu cầu dẫn độ là tội phạm có liên quan đến chính trị hoặc liên quan đến quân sự theo quy định tại các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;”
Để đảm bảo tính đồng bộ, khả thi, phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo vệ quyền lợi của quốc gia cũng như công dân, đảm bảo tính rõ ràng, logic trong văn bản và thuận lợi cho quá trình thực thi, đề nghị bổ sung, làm rõ thêm các khái niệm: Tội phạm có liên quan đến chính trị, Tội phạm có liên quan đến quân sự.
Thứ hai, về chuyển giao người bị dẫn độ
Tại khoản 3 Điều 36 dự thảo Luật quy định
“3. Trường hợp hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, nếu nước yêu cầu dẫn độ không tiếp nhận người bị dẫn độ mà không có lý do chính đáng thì Bộ Công an kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân đã ra quyết định thi hành quyết định dẫn độ hủy quyết định thi hành quyết định dẫn độ và quyết định dẫn độ, trả tự do cho người bị dẫn độ và thông báo cho nước yêu cầu dẫn độ. Các quyết định nêu trên được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định.”.
Việc quy định như trên là hợp lý, tuy nhiên cần quy định rõ các trường hợp như thế nào là “lý do chính đáng”, để tránh trường hợp hết thời gian mà vẫn tiếp tục giữ đương sự, trong trường trường hợp tiếp tục giữ đương sự thì cần quy định cụ thể thời gian kéo dài tối đa là bao lâu. Kiến nghị cần quy định rõ ràng, ví dụ: lý do bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, hoặc lý do ngoại giao được chấp nhận. Đồng thời cần xác định thời hạn gia hạn tối đa (chẳng hạn 30 ngày), tránh giam giữ tùy tiện, vi phạm quyền con người.
Thứ ba, về từ chối dẫn độ cho nước ngoài
Tại khoản 1 Điều 41 của Dự thảo quy định về các trường hợp cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam sẽ từ chối dẫn độ cho nước ngoài.
Đề nghị bổ sung thêm căn cứ để từ chối dẫn độ: “Khi người bị yêu cầu dẫn độ không còn có mặt trên lãnh thổ Việt Nam vào thời điểm Việt Nam nhận được yêu cầu dẫn độ”. Vì có thể khi nhận được yêu cầu dẫn độ của nước ngoài thì người bị yêu cầu dẫn độ đã trốn, không còn có mặt trên lãnh thổ Việt Nam nữa, trong trường hợp này sẽ từ chối dẫn độ vì việc dẫn độ sẽ không thể thực hiện được.
Do đó, đề nghị đơn vị chủ trì soạn thảo nghiên cứu, xem xét bổ sung nội dung này tại dự thảo Luật nhằm thuận lợi hơn trong việc áp dụng khi xảy ra trường hợp tương tự, tránh thủ tục hình thức, lãng phí thời gian.
Hoàn thiện cơ sở pháp lý về dẫn độ góp phần tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tư pháp hình sự, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm xuyên quốc gia, góp phần bảo vệ an ninh trật tự quốc gia, hòa bình và an ninh quốc tế.
Trên đây là một số nội dung góp ý về dự thảo Luật Dẫn độ hoàn thiện góp phần hoàn thiện pháp luật về dẫn độ, theo hướng đồng bộ, hiện đại, bảo đảm chặt chẽ, khả thi, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế./.