Hiến pháp năm 1946
Ngay sau khi thành lập Chính phủ lâm thời, ngày 08/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 14 về mở cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc dân đại biểu. Tiếp sau đó, ngày 17/10/1945, Sắc lệnh số 51 ấn định thể lệ tổng tuyển cử, trong đó xác định rõ “Tất cả những công dân Việt Nam 18 tuổi trở lên không phân biệt nam nữ đều có quyền bầu cử và ứng cử, trừ ra những người này: (1) Những người điên: những người mà dân địa phương đã công nhận là điên. Danh sách những người trong làng hay khu phố do Uỷ ban nhân dân làng hay khu phố ấn định. (2) Những người hành khất chuyên môn, hay là những người do một hội thiện nào nuôi vĩnh viễn. Danh sách những người này do Uỷ ban nhân dân làng hay khu phố ấn định. (3) Những người bị can án mà không được hưởng sắc lệnh đại xá của Chính phủ dân chủ cộng hoà”.
Trên cơ sở các văn bản pháp lý này, ngày 06/01/1946, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đã diễn ra, đánh dấu một bước tiến lớn trong việc xây dựng thể chế dân chủ. Hiến pháp năm 1946 được Quốc Hội khóa I thông qua vào ngày 02/3/1946 đã lần đầu tiên quy định quyền bầu cử của công dân trong một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Điều thứ 18 Hiến pháp năm 1946 ghi nhận: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những người mất công quyền.”; “Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử.”.
Đây là một quy định tiến bộ, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa giành độc lập. Quyền bầu cử được trao cho cả nam và nữ người đang phục vụ trong quân đội, thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng và phổ thông đầu phiếu.
Hiến pháp năm 1959
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, thực dân Pháp lại gây ra chiến tranh để xâm lược nước ta một lần nữa. Nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ. Với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơnevơ thắng lợi, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng nhưng đất nước còn tạm thời chia làm hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới này là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Hiến pháp năm 1946 đã hoàn thành sứ mệnh của nó nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong kì họp lần thứ 6, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946. Ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi.
Về quyền bầu cử, Điều 23 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, từ hai mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và những người bị Toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử. Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử.”
So với Hiến pháp năm 1946, quy định về quyền bầu cử trong Hiến pháp năm 1959 đã có những điểm phát triển cả về nội dung và hình thức. Nếu Hiến pháp năm 1946 chỉ quy định một cách khái quát, không phân biệt gái trai đều có quyền bầu cử thì trong Hiến pháp năm 1959 đã mở rộng thêm hàng loạt yếu tố cần đảm bảo nguyên tắc bình đẳng thực chất trong quyền chính trị: không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú. Ngoài ra, Hiến pháp năm 1959 còn bổ sung quy định về loại trừ quyền bầu cử với những người bị Tòa án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử. Điểm tiến bộ này so với Hiến pháp năm 1946 nhằm đảm bảo tính hợp pháp và minh bạch trong việc hạn chế quyền công dân, tránh sự tùy tiện và bảo đảm nguyên tắc quyền lực pháp luật là tối thượng.
Hiến pháp năm 1980
Sau chiến thắng mùa xuân năm 1975, nước ta đã hoàn toàn thống nhất. Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra đường lối xây dựng và bảo vệ trong phạm vi cả nước, đồng thời xác định: Để khẳng định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và thể chế hoá đường lối của Đảng, chúng ta phải xây dựng bản Hiến pháp mới. Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VI ngày 18/12/1980 đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980.
Điều 57 Hiến pháp ghi nhận: “Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó.”
Hiến pháp 1980 tiếp tục khẳng định nguyên tắc bình đẳng trong quyền bầu cử, đồng thời nhấn mạnh quyền ứng cử vào cả Quốc Hội và hội đồng nhân dân các cấp quy định này cho thấy sự mở rộng phạm vi thực hiện quyền chính trị của công dân trong điều kiện đất nước bước vào thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn quốc.
Hiến pháp năm 1992
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra thời kì đổi mới ở nước ta. Đảng đã chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những sai lầm của Đảng, của Nhà nước, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động, trên cơ sở đó để có những nhận thức mới, đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trương, chính sách mới nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng và văn minh. Ngày 15/4/1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp.
Trong Hiến pháp 1992, tại Điều 54 quy định “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.”
So với các bản hiến pháp trước, Hiến pháp 1992 không thay đổi về độ tuổi bầu cử và ứng cử nhưng tiếp tục tái khẳng định và mở rộng nội hàm của các nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong thực hiện quyền chính trị.
Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 2013 được thông qua trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng đã có nhiều điểm đổi mới về quyền con người và quyền công dân. Hiến pháp 2013 quy định quyền bầu cử tại Điều 27: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật định.".
Điểm đáng chú ý là Hiến pháp 2013 đã lược bỏ các tiêu chí “không phân biệt” từng được liệt kê cụ thể trong các hiến pháp trước, thay vào đó là quy định mang tính khái quát và định hướng rõ ràng. Điều này tạo cơ sở để các đạo luật cụ thể hóa đồng thời phù hợp với tinh thần bảo đảm quyền con người theo thông lệ quốc tế việc xác định do luật cũng cho thấy sự chuyên biệt hóa và tôn trọng nguyên tắc pháp quyền.
Qua các bản Hiến pháp từ năm 1946 đến 2013, có thể thấy rằng quyền bầu cử của công dân Việt Nam không ngừng được mở rộng hoàn thiện và phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Từ những quy định mang tính khởi đầu trong Hiến pháp 1946 đến sự định hình trong Hiến pháp 1959 và sự phát triển toàn diện trong các bản Hiến pháp sau này, quyền bầu cử đã được khẳng định và là trụ cột của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời là biểu hiện cụ thể của quyền lực nhân dân trong tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước./.