Công tác dân số luôn giữ vai trò then chốt trong phát triển bền vững của đất nước. Sau hơn 60 năm triển khai chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng: duy trì mức sinh thay thế, kiểm soát tốc độ gia tăng dân số, từng bước nâng cao chất lượng dân số. Tuy nhiên, trong giai đoạn mới, công tác dân số đang đứng trước nhiều thách thức như: mất cân bằng giới tính khi sinh, tốc độ già hóa dân số nhanh, di cư tự do phức tạp, sự chênh lệch về chất lượng dân số giữa các vùng, nhóm dân cư.
Trong khi đó, các quy định pháp luật hiện hành về dân số chủ yếu nằm rải rác trong nhiều văn bản (Pháp lệnh Dân số năm 2003, Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của Bộ Y tế) mà chưa có Luật Dân số thống nhất điều chỉnh toàn diện. Do đó, việc ban hành Luật Dân số là yêu cầu cấp thiết nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về chuyển trọng tâm từ “dân số - kế hoạch hóa gia đình” sang “dân số và phát triển”, tạo hành lang pháp lý thống nhất cho quản lý và phát triển dân số trong tình hình mới.
Bổ sung nhiều chính sách mới, hướng tới dân số phát triển toàn diện
So với Pháp lệnh Dân số, dự thảo Luật Dân số đã quy định cụ thể hơn các chính sách, biện pháp về nâng cao chất lượng dân số, truyền thông, vận động, giáo dục về dân số. Việc ban hành luật để hoàn thiện cơ sở pháp lý về phòng bệnh góp phần nâng cao sức khỏe cả về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam.
Chính sách duy trì mức sinh thay thế là một trong 4 nhóm chính sách lớn được quy định dự thảo Luật; trong đó tiếp tục kế thừa quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi cặp vợ chồng, cá nhân trong việc sinh con tại Pháp lệnh Dân số, đồng thời quy định các biện pháp, chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ cặp vợ chồng, cá nhân sinh con, nuôi con.
Theo đó, Luật đề xuất: Tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai; hỗ trợ về tài chính đối với một số nhóm đối tượng (phụ nữ dân tộc thiểu số; phụ nữ ở địa phương có mức sinh thấp; phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi); ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở đối với phụ nữ sinh đủ hai con hoặc nam giới có hai con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết.
Một trong những chính sách gây chú ý nhất là việc ưu tiên mua nhà xã hội, đây là một điểm sửa đổi quan trọng trong Luật Nhà ở. Dự thảo Luật quy định thứ tự ưu tiên hỗ trợ cho các nhóm đối tượng khi có cùng điều kiện; mở rộng đối tượng ưu tiên, thêm một số nhóm đặc thù, như: phụ nữ sinh đủ 2 con, nam giới có 2 con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết. Như vậy, mục tiêu sửa đổi là nhằm làm rõ nguyên tắc ưu tiên khi xét hỗ trợ, đồng thời thể hiện yếu tố nhân văn, bình đẳng giới và chính sách dân số.
Đặc biệt, dự thảo tăng cường phân cấp, trao quyền cho chính quyền địa phương cấp tỉnh trong việc chủ động lựa chọn biện pháp, thời điểm và bố trí ngân sách thực hiện chính sách dân số, phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội và động thái dân số của từng vùng.
Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trong nội dung Dự thảo Luật Dân số
Qua nghiên cứu Dự thảo Luật Dân số, có thể thấy cơ quan soạn thảo đã tiếp cận toàn diện, bổ sung nhiều nội dung mới nhằm khắc phục hạn chế của giai đoạn trước. Tuy nhiên, vẫn còn một số điểm cần làm rõ, cụ thể:
1. Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật
Tại Điều 24 Chương VII của dự thảo Luật có quy định về “Trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác dân số”. Tuy nhiên, tại Điều 1 của Dự thảo Luật quy định về phạm vi điều chỉnh chưa quy định nội dung này. Do vậy, để đảm bảo đầy đủ, đề nghị bổ sung nội dung: “quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong công tác dân số.”
2. Về giải thích từ ngữ
Tại điểm d khoản 2 Điều 9 của Dự thảo Luật Dân số quy định về ưu tiên truyền thông, vận động, giáo dục về dân số cho các đối tượng, trong đó có “người di cư”. Tuy nhiên, thuật ngữ “người di cư” chưa được định nghĩa trong hệ thống pháp luật Việt Nam, kể cả trong các văn bản hiện hành như Luật Cư trú, Bộ luật Lao động hay Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Các luật này chỉ điều chỉnh một số dạng di cư cụ thể như: “người di cư tự do”, “người di cư trong nước”, hoặc “người di cư ra nước ngoài vì mục đích lao động”, chứ chưa có một khái niệm tổng quát. Do đó, việc Dự thảo Luật sử dụng thuật ngữ “người di cư” mà không giải thích rõ nội hàm sẽ không đảm bảo tính minh bạch và khả năng áp dụng thống nhất theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Điều 5), khi quy định các khái niệm mới, chuyên biệt cần được giải thích rõ trong Luật.
Thực tế di cư ở Việt Nam rất đa dạng: có người di cư từ nông thôn ra thành thị, người di cư vì việc làm, học tập, tái định cư do thiên tai, di cư tự do qua biên giới... Mỗi nhóm lại có đặc điểm khác nhau về điều kiện sống, khả năng tiếp cận thông tin dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình. Nếu không xác định rõ “người di cư” là ai, các chính sách ưu tiên truyền thông, vận động dân số sẽ khó xác định đúng đối tượng. Ví dụ: Người dân chuyển nơi cư trú tạm thời trong nội tỉnh có được xem là “người di cư” không? Có bao gồm người lao động nước ngoài tại Việt Nam hay chỉ áp dụng cho công dân Việt Nam? Người di cư tự do vùng biên có thuộc phạm vi điều chỉnh không? Điều này dẫn đến có thể áp dụng không thống nhất giữa các địa phương, ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành Luật và công tác thống kê, quản lý dân số.
Do đó, đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung một khoản giải thích từ ngữ “người di cư” trong Điều 2 của Dự thảo Luật.
3. Về nguyên tắc thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội
Tại khoản 3 Điều 28 của dự thảo Luật quy định sửa đổi, bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 79 Luật Nhà ở. Đây là một điểm sửa đổi quan trọng trong Luật Nhà ở, liên quan đến nguyên tắc hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội.
Dự thảo Luật quy định thứ tự ưu tiên hỗ trợ cho các nhóm đối tượng khi có cùng điều kiện; mở rộng đối tượng ưu tiên, thêm một số nhóm đặc thù, như: phụ nữ sinh đủ 2 con, nam giới có 2 con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết. Như vậy, mục tiêu sửa đổi là nhằm làm rõ nguyên tắc ưu tiên khi xét hỗ trợ, đồng thời thể hiện yếu tố nhân văn, bình đẳng giới và chính sách dân số.
Việc xác định thứ tự ưu tiên cụ thể là cần thiết để tránh tình trạng tùy nghi trong xét duyệt hồ sơ hỗ trợ. Nhóm người có công, thân nhân liệt sĩ, người khuyết tật, người tái định cư được ưu tiên trước là phù hợp, có cơ sở pháp lý và xã hội rõ ràng. Bổ sung đối tượng mới có thể coi là phù hợp định hướng chính sách dân số hiện nay, hướng tới khuyến khích sinh đủ 2 con và hỗ trợ đối tượng yếu thế, đơn thân nuôi con. Tuy nhiên, còn một số điểm cần cân nhắc, cụ thể như: Việc đưa đối tượng “phụ nữ sinh đủ 2 con” - cũng là chủ thể đối tượng “nữ giới” - khiến cho đối tượng “nữ giới” đặt ở cuối danh sách chưa rõ ý nghĩa. Nếu việc quy định tách riêng đối tượng “nữ giới” với mục đích là ưu tiên phụ nữ độc thân, đơn thân, cần nêu rõ: “phụ nữ đơn thân nuôi con” hoặc “phụ nữ độc thân thuộc hộ nghèo, cận nghèo” để đảm bảo tính xác định. Đối tượng “nữ giới” đứng riêng lẻ như cách quy định tại dự thảo là thiếu căn cứ xác định và dễ dẫn đến cách hiểu chưa rõ ràng.
Đối với đối tượng “nam giới có 2 con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết”, việc quy định trên là thiếu cơ sở và chưa đảm bảo công bằng. Chính sách an sinh phải dựa vào hoàn cảnh khó khăn, gánh nặng nuôi con, không có người hỗ trợ – chứ không nên ràng buộc bằng số lượng con cụ thể. Nếu người cha có 01 con nhưng gặp hoàn cảnh khó khăn hơn thì lại không được ưu tiên, điều này mâu thuẫn với mục tiêu công bằng của chính sách.
Việc quy định không đảm bảo thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác hiện nay, như Nghị định 20/2021/NĐ-CP ngày 15/03/2021 của Chính phủ quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội dùng khái niệm “người đơn thân nghèo đang nuôi con”, không phân biệt giới tính, cũng không gắn với số con cụ thể. Việc sửa đổi nội dung của Luật Nhà ở sử dụng cách diễn đạt riêng này có thể sẽ gây thiếu thống nhất và khó áp dụng.
Do đó, để bảo đảm tính công bằng, khả thi và thống nhất, đề nghị chỉnh sửa lại cho rõ ràng, hợp lý hơn, điều chỉnh lại nhóm đối tượng ưu tiên để đảm bảo tính khả thi, minh bạch, nên thay cụm từ này bằng khái niệm đã được pháp luật công nhận và sử dụng ổn định, ví dụ: “người đơn thân nuôi con” (bao gồm cả nam và nữ, không phân biệt số lượng con).
Dự thảo Luật Dân số là văn bản có ý nghĩa quan trọng trong việc cụ thể hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về “dân số là nhân tố trung tâm của phát triển”. Việc hoàn thiện Dự thảo không chỉ nhằm đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật mà còn góp phần nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với già hóa, di cư và biến động dân số trong giai đoạn mới. Để các quy định của luật đi vào cuộc sống, cần tiếp tục lấy ý kiến rộng rãi từ các địa phương và nhóm dân cư chịu tác động trực tiếp, đặc biệt là vùng có tỷ lệ di cư cao, khu công nghiệp, vùng dân tộc thiểu số, miền núi… nhằm hoàn thiện chính sách theo hướng thực tiễn, khả thi và nhân văn./.