Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên - Cổng thông tin điện tử Phổ biến giáo dục pháp luậthttps://pbgdplthainguyen.gov.vn/uploads/botuphap.png
Thứ bảy - 27/09/2025 23:17100
Ngày 20/11/2024 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Quy định số 199-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Với vai trò là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo, Ban Nội chính Tỉnh ủy Thái Nguyên vừa qua đã phối hợp với các sở, ban, ngành thực hiện rà soát các quy định pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Rà soát các vướng mắc, bất cập, các “điểm nghẽn” trong hệ thống pháp luật nói chung đang là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng thể chế theo tinh thần của Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, đảm bảo thực hiện đến đích cho mục tiêu “Năm 2025, cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ những "điểm nghẽn" do quy định pháp luật”. Với chủ trương đó, Ban Chỉ đạo tỉnh Thái Nguyên đã chỉ đạo việc rà soát để đánh giá các vướng mắc, bất cập trong phạm vi các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Theo kết quả rà soát, các quy định pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn bất cập, có khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện và được nhận diện như sau: (i) Một số quy định về chuyển đổi vị trí công tác, tiêu chuẩn bổ nhiệm giám định viên tư pháp còn khó khăn trong việc thực hiện, chưa đáp ứng yêu cầu bố trí, sử dụng cán bộ chuyên môn sâu. (ii) Công tác kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập chưa có cơ sở dữ liệu thống nhất toàn quốc nên việc kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức còn gặp nhiều khó khăn; một số quy định còn chồng chéo, thiếu hướng dẫn cụ thể. (iii) Phạm vi đối tượng bị áp dụng biện pháp kê biên tài sản chưa đầy đủ; việc xác định “phần tài sản tương ứng” để kê biên còn lúng túng, gây khó khăn cho công tác thu hồi tài sản thiệt hại cho Nhà nước. Phạm vi xử lý hành vi tham nhũng theo Bộ luật Hình sự chưa bao quát đủ 12 hành vi theo Luật Phòng, chống tham nhũng. (iv) Một số quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, “lợi ích phi vật chất” trong tội “Nhận hối lộ”. (v) Vẫn còn có bất cập trong thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực khác trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực Những bất cập đó được phân tích từ những quy định cụ thể của pháp luật, gắn liền với đó là những đề xuất đến các cơ quan có thẩm quyền. 1. Khó thực hiện quy định về thời hạn chuyển đổi vị trí công tác trong lĩnh vực đấu thầu Theo quy định tại Điều 36 Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng, về nội dung danh mục vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi và Phụ lục ban hành kèm theo, vị trí công tác "Đấu thầu và quản lý đấu thầu" thuộc danh mục vị trí công tác định kỳ phải chuyển đổi. Cùng với đó, Thông tư số 18/2022/TT-BKHĐT ngày 08/8/2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định danh mục vị trí công tác "Đấu thầu và quản lý đấu thầu" thuộc danh mục vị trí công tác định kỳ phải chuyển đổi và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác này là "từ đủ 03 năm đến 05 năm". Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều 21 Nghị định số 214/2025/NĐ-CP ngày 04/8/2025 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu có quy định về yêu cầu cán bộ làm công tác đấu thầu (thành viên tổ chuyên gia, tổ thẩm định) phải “có tối thiểu 03 năm công tác thuộc một trong các lĩnh vực liên quan đến nội dung pháp lý, kỹ thuật, tài chính của gói thầu”. Do vậy, để có nguồn nhân lực phải đào tạo được cán bộ làm công tác đấu thầu có tối thiểu 03 năm kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực nhưng làm việc đủ 03 năm đến 05 năm đã phải thực hiện định kỳ chuyển đổi vị trí công tác theo Luật phòng, chống tham nhũng là rất khó khăn, bất cập. Với nội dung này, Bộ Tài chính cần chủ trì nghiên cứu đề xuất sửa đổi quy định pháp luật để thực hiện việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ làm công tác đấu thầu vừa đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ của hoạt động đấu thầu; vừa đảm bảo nguyên tắc và mục tiêu của công tác phòng, chống tham nhũng. 2. Kinh nghiệm công tác là tiêu chuẩn bổ nhiệm giám định viên tư pháp – một quy định bất cập với thời gian định kỳ chuyển đổi vị trí Giám định tư pháp là hoạt động phức tạp, khó khăn đòi hỏi sự tâm huyết, trách nhiệm cũng như cần có cơ chế động viên, khuyến khích để thu hút người có trình độ chuyên môn cao tham gia công tác giám định tư pháp. Tuy nhiên trên thực tế việc xây dựng đội ngũ này còn gặp nhiều khó khăn, nhất là lĩnh vực giám định pháp y. Một trong những rào cản là tiêu chuẩn để bổ nhiệm giám định viên còn có bất cập với thực hiện các quy định về phòng chống lãng phí, tham nhũng, tiêu cực. Cụ thể tại Điều 7 Luật Giám định tư pháp năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), một trong những tiêu chuẩn bổ nhiệm giám định viên là “có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên”. Trong khi đó, theo Danh mục vị trí công tác định kỳ chuyển đổi ban hành kèm theo Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, công chức, viên chức thuộc các cơ quan chuyên môn như Tài chính, Xây dựng, Văn hóa - Thể thao và Du lịch... phải định kỳ chuyển đổi vị trí công tác, trong đó có cả những người đang là giám định viên tư pháp các lĩnh vực. Về vấn đề này, điểm e[1] khoản 1 Điều 10 Luật Giám định tư pháp năm 2012 (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp năm 2020) quy định, giám định viên tư pháp sau khi được bổ nhiệm nếu phải chuyển đổi vị trí công tác sẽ thuộc một trong các trường hợp miễn nhiệm. Vô hình chung, nguồn giám định viên không ổn định và cũng khó đảm bảo điều kiện để bổ nhiệm thay thế. Theo đánh giá, hoạt động giám định tư pháp là sự đóng góp tích cực, cung cấp nguồn chứng cứ khoa học, tin cậy giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt động chứng minh theo quy định của pháp luật tố tụng, góp phần quan trọng vào việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án được chính xác, khách quan và đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc thu hút nguồn nhân lực trong lĩnh vực giám định tư pháp hiện gặp nhiều khó khăn tại đa số các địa phương trong cả nước. Cùng với việc triển khai định kỳ chuyển đổi vị trí công tác theo quy định về phòng, chống tham nhũng gây khó khăn nhất định trong việc duy trì đội ngũ và rà soát tìm người đủ điều kiện thay thế để thực hiện bổ nhiệm giám định viên tư pháp. Trước các bất cập phân tích trên, Bộ Tư pháp cần sớm nghiên cứu đề xuất sửa đổi quy định pháp luật về tiêu chuẩn bổ nhiệm giám định viên theo hướng giảm thời gian thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm xuống còn từ đủ 03 năm trở lên. 3. Quy định chưa thống nhất, đầy đủ về kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập Kê khai tài sản, thu nhập là việc ghi rõ ràng, đầy đủ, chính xác các loại tài sản, thu nhập, biến động tài sản, thu nhập phải kê khai, nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm theo mẫu quy định; được coi là một biện pháp kiểm soát các vi phạm liên quan đến tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, các quy định hiện hành chưa đảm bảo tính thống nhất và đầy đủ. Thứ nhất về tính thống nhất, điểm c khoản 1 Điều 10 Nghị định số 130/2020/NĐ-CP quy định ngạch công chức và chức danh kế toán viên thuộc đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập hàng năm; Thông tư số 29/2022/TT-BTC ngày 03/6/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định về mã số, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và xếp lương đối với các ngạch công chức chuyên ngành kế toán, thuế, hải quan, dự trữ thì chức danh công chức chuyên ngành kế toán gồm: kế toán viên trung cấp, kế toán viên, kế toán viên chính và kế toán viên cao cấp. Như vậy những trường hợp được tuyển dụng vào công chức làm công tác kế toán mà chưa được bổ nhiệm vào chức danh công chức chuyên ngành kế toán theo quy định tại Thông tư số 29/2022/TT-BTC thì không phải kê khai tài sản, thu nhập hàng năm. Tuy vậy, tại điểm b khoản 3 Điều 36 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: Người không giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên mà làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công, đầu tư công hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác theo quy định của Chính phủ thì thuộc đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập hàng năm (việc kê khai phải hoàn thành trước ngày 31 tháng 12). Thứ hai, các quy định chưa đầy đủ do hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể đã gây khó khăn trong công tác tổ chức kê khai tài sản, thu nhập và nghiệp vụ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; cách ghi tổng thu nhập giữa 2 lần kê khai vào cột “giá trị tài sản, thu nhập” (sau khi trừ chi tiêu, trả nợ); các mốc kê khai (lần đầu, hàng năm, công tác cán bộ)… Việc theo dõi biến động tài sản, thu nhập của cơ quan kiểm soát tài sản thu nhập còn có khó khăn, vướng mắc do hiện nay chưa có phần mềm thống nhất trong phạm vi toàn quốc để theo dõi, cập nhật dữ liệu, thông tin của người kê khai, phục vụ công tác theo dõi biến động tài sản, thu nhập. Các bất cập trên rất cần Thanh tra Chính phủ đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn; đồng thời sớm ban hành văn bản hướng dẫn để thống nhất khi thực hiện kê khai tài sản thu nhập cũng như khẩn trương hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản. 4. Áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong các tội về tham nhũng Kê biên tài sản là việc thống kê, lập danh mục từng loại tài sản và giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo quản, cấm việc tẩu tán, phá hủy nhằm đảm bảo cho việc xét xử, thi hành bản án và các quyết định của cơ quan nhà nước được thuận lợi, đúng pháp luật. Khoản 1 Điều 128 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định chỉ được áp dụng biện pháp kê biên tài sản đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tiền hoặc có thể bị tịch thu tài sản hoặc để bảo đảm bồi thường thiệt hại. Việc kê biên phần tài sản phải tương ứng với mức có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp bị can, bị cáo chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng tài sản cho người thân, bạn bè để tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho công tác thu hồi do các đối tượng này không thuộc diện áp dụng biện pháp trên. Bên cạnh đó, việc xác định “phần tài sản tương ứng” là rất khó khăn do không có quy định về định lượng cụ thể thế nào là phần tài sản tương ứng, dẫn đến việc kê biên tài sản không kịp thời, tạo điều kiện cho các đối tượng có thời gian để tẩu tán tài sản, gây khó khăn cho công tác thu hồi thiệt hại cho Nhà nước. Để giải quyết bất cập này, trong thời gian tới cần nghiên cứu theo hướng mở rộng phạm vi đối tượng bị áp dụng biện pháp kê biên tài sản là những người có liên quan đến bị can, bị cáo, người bị buộc tội nếu như có căn cứ chứng minh bị can, bị cáo, người bị buộc tội chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng tài sản cho các đối tượng có liên quan nhằm mục đích tẩu tán tài sản. Ngoài ra, cần quy định rõ nguyên tắc xác định “phần tài sản tương ứng” với mức có thể bị phạt, tịch thu hoặc bồi thường thiệt hại để làm cơ sở pháp lý bảo đảm thu hồi tối đa tài sản bị thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. 5. Khung pháp lý để xử lý tội phạm tham nhũng chưa đồng bộ, thống nhất và chưa toàn diện Một là, một số quy định pháp luật về xử lý tội phạm tham nhũng còn thiếu, chưa đồng bộ, không thống nhất dẫn đến việc hiểu và vận dụng khác nhau. Cụ thể, tại Mục 1 Các tội phạm tham nhũng thuộc Chương XXIII Bộ Luật hình sự quy định 07 hành vi phạm tội tham nhũng; trong khi đó tại khoản 1, Điều 2, Luật Phòng, chống tham những năm 2018 quy định đến 12 hành vi tham nhũng. Đối chiếu với pháp luật về hình sự có 05 hành vi[2] còn thiếu chế tài để xử lý và cũng chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, gây khó khăn và tạo kẽ hở trong quá trình vận dụng vào thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về tham nhũng. Hai là, quy định về tội nhận hối lộ theo tinh thần của điểm b khoản 1 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận lợi ích phi vật chất cho chính bản thân người đó hoặc cho tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ. Trên thực tế rất khó khăn trong xem xét trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong vụ án do không xác định được tính chất, mức độ của lợi ích phi vật chất. “Lợi ích phi vật chất” là điểm mới trong quy định của Bộ Luật hình sự năm 2015 nhằm mở rộng nội hàm của thuật ngữ “của hối lộ” trong tội nhận hối lộ. Theo khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ hướng dẫn như sau: “4. “Lợi ích phi vật chất” quy định tại điểm b khoản 1 các điều 354, 358, 364, 365 và 366 của Bộ luật Hình sự là những lợi ích không phải lợi ích vật chất. Ví dụ: Hối lộ bằng cách tặng thưởng, đề xuất tặng thưởng các danh hiệu, giải thưởng; bầu, cử, bổ nhiệm chức vụ; nâng điểm thi; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài; hối lộ tình dục, ..”. Như vậy, lợi ích phi vật chất là những lợi ích vô hình, phi tiền tệ, có thể là lợi ích tinh thần được biểu hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau nhưng có thể mang lại giá trị về mặt tinh thần cho người nhận hối lộ, thường là cá nhân. Do đó rất cần xem xét, nghiên cứu và có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong vụ án do không xác định được tính chất, mức độ của lợi ích phi vật chất, tránh việc đánh giá chủ quan, không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Ba là về thể chế, chính sách chung. Một số quy định còn chồng chéo, thiếu rõ ràng, dẫn đến khó áp dụng trên thực tế. Ví dụ: Việc xác định “lãng phí” hay “tiêu cực” trong đầu tư công đôi khi còn mang tính định tính. Khó khăn trong kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức do thiếu cơ sở dữ liệu, khó xác minh nguồn gốc tài sản. Nhiều hình thức tham nhũng ngày càng tinh vi, qua trung gian, lợi ích nhóm, gây khó khăn cho việc phát hiện và xử lý; ứng dụng công nghệ trong phòng, chống tham nhũng chưa có giải pháp hữu hiệu;… Việc xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân còn chưa cụ thể và trong nhiều trường hợp, rất khó để chứng minh một pháp nhân có thực sự chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của các cá nhân đại diện hay không; thiếu hướng dẫn chi tiết về cách thức xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, dẫn đến việc áp dụng các quy định này thiếu đồng bộ và hiệu quả. 6. Còn có bất cập trong thực hiện cơ chế, chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực khác trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực Các vướng mắc tập trung ở một số nội dung như: Thứ nhất, sau khi chính quyền địa phương hai cấp đi vào hoạt động, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp huyện đã chuyển về cấp tỉnh, do đó toàn bộ các vụ việc, vụ án đều được đưa về Hội đồng định giá cấp tỉnh thực hiện. Đồng thời, do địa bàn quản lý rộng, phát sinh nhiều yêu cầu định giá trong đó có nhiều yêu cầu định giá ở cách xa trung tâm hành chính dẫn đến khó khăn trong công tác thực hiện các bước định giá. Mặt khác, số lượng công chức làm công tác định giá của Sở Tài chính còn ít, kinh nghiệm còn hạn chế, điều này dẫn đến quá tải trong thực hiện nhiệm vụ của Hội đồng định giá tài sản cấp tỉnh, làm ảnh hưởng đến tiến độ và thời gian giải quyết vụ việc, vụ án. Thứ hai, hoạt động giám định, định giá tài sản trong tố tụng hình sự chưa quy định cụ thể về thời hạn giám định đối với các lĩnh vực thuế, tài chính nên chưa thống nhất, rõ ràng trong thực hiện. Thứ ba, một số tội danh nêu dấu hiệu về yếu tố thu lợi bất chính, gây thiệt hại trong vụ án, tuy nhiên chưa có hướng dẫn cụ thể trong việc xác định hành vi thu lợi bất chính, gây thiệt hại, một số hành vi chưa được cụ thể hóa trong luật. Do đó rất cần Tòa án nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn trong việc xác định hành vi thu lợi bất chính, gây thiệt hại trong vụ án để có đường hướng xử lý phù hợp. Thứ tư, xác định thiệt hại khi pháp luật thay đổi còn chưa có nguyên tắc, quy định cụ thể. Trong thực tiễn, một số doanh nghiệp lợi dụng sự thay đổi pháp luật để hợp thức hóa hồ sơ theo thời điểm có lợi, gây khó khăn trong việc xác định thiệt hại và xử lý trách nhiệm hình sự. Thực trạng này cần được các cơ quan tố tụng cấp trung ương nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật theo hướng quy định chi tiết hơn về trách nhiệm hình sự đối với các doanh nghiệp trong trường hợp lợi dụng thay đổi pháp luật để hợp thức hóa hành vi vi phạm. Bộ Chính trị khẳng định, trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tiếp tục được thực hiện theo phương châm “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; truy tố một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực” tạo nền tảng quan trọng để phát triển đất nước. Điều đó cho thấy, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được Đảng, Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài. Với tinh thần đổi mới công tác xây dựng thể chế tại Nghị quyết số 66-NQ/TW nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của kỷ nguyên mới, pháp luật về phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực cần được rà soát tổng thể để khắc phục những điểm “nghẽn”, những bất cập, chồng chéo. Hơn bao giờ hết, thể chế, pháp luật về phòng, chống tham nhũng cần được xây dựng hoàn thiện nhất, khẳng định quyết tâm lớn của cả hệ thống chính trị trong cuộc đấu tranh “sinh tử” diệt “giặc tham nhũng”, góp phần đưa đất nước phát triển bền vững, củng cố hơn nữa niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới./.
[1] “e) Chuyển đổi vị trí công tác hoặc chuyển công tác sang cơ quan, tổ chức khác mà không còn điều kiện phù hợp để tiếp tục thực hiện giám định tư pháp”.
[2] 05 hành vi trong Luật Phòng, chống tham nhũng chưa có tội danh tương ứng trong Bộ luật hình sự: Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi (BLHS có tội đưa hối lộ (Điều 364), môi giới hối lộ (Điều 365) nhưng xếp vào tội phạm về chức vụ khác, không nằm trong nhóm 07 tội phạm tham nhũng); Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi).