Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên - Cổng thông tin điện tử Phổ biến giáo dục pháp luậthttps://pbgdplthainguyen.gov.vn/uploads/botuphap.png
Thứ hai - 13/10/2025 00:27180
Xây dựng và duy trì văn hóa đọc đang là mục tiêu của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển phong trào đọc trong cộng đồng. Văn hóa đọc được hiểu là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân, cộng đồng xã hội, các nhà quản lý và cơ quan quản lý nhà nước được hình thành trên ba yếu tố là thói quen đọc, sở thích đọc và kỹ năng đọc. Văn hóa đọc cũng là một loại hình hoạt động văn hóa, thông qua đó nhằm tiêu thụ, quảng bá những giá trị văn hóa từ sách mà người đọc tiếp nhận được và làm nền tảng để tiếp tục sáng tạo thêm những giá trị mới. Mô hình Thư viện cơ sở được xây dựng là một trong những giải pháp hỗ trợ thực chất để lan tỏa tinh thần của văn hóa đọc một cách bền vững, thuận lợi, khả thi hơn. Lồng ghép Tủ sách pháp luật vào mô hình đó cũng là cách làm hay, khi văn hóa tuân thủ pháp luật cũng đang được coi là một chủ trương chỉ đạo lớn của Đảng và Nhà nước ta, trong tiến trình xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới kỳ vọng nhiều nội lực và sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa và thể chế.
Những chủ trương nền móng
Năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 329/QĐ-TTg ngày 15/3/2017 phê duyệt Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó Đề án nêu bốn quan điểm cơ bản: Một là, phát triển văn hóa đọc là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục của đất nước. Hai là, phát triển văn hóa đọc trên cơ sở khai thác có hiệu quả và không ngừng phát triển nguồn vốn tri thức, văn hóa của con người và dân tộc Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa tri thức của nhân loại. Ba là. Nhà nước hỗ trợ phát triển văn hóa đọc, đồng thời đẩy mạnh việc đa dạng hóa, huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia phát triển văn hóa đọc. Bốn là, các cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể, tổ chức xã hội, các cơ sở giáo dục và các tổ chức khác liên quan cùng gia đình, cộng đồng có trách nhiệm tham gia và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển văn hóa đọc. Đặc biệt định hướng đến năm 2030: người dân có thói quen đọc và kỹ năng tiếp cận, sử dụng thông tin, trí thức tại nơi sinh sống, học tập, công tác; các chỉ tiêu phát triển văn hóa đọc được duy trì và củng cố; môi trường đọc tiếp tục được cải thiện; hoạt động thư viện, xuất bản có khả năng đáp ứng nhu cầu đọc của người dân (bao gồm cả xuất bản phẩm in và điện tử).
Năm 2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1862/QĐ-TTg ngày 04/11/2021 về tổ chức Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam. Theo đó “Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam” được tổ chức vào ngày 21 tháng 4 hằng năm trên phạm vi toàn quốc với quyết tâm phát triển văn hóa đọc lên tầm cao mới. Tầm cao đó được thể hiện ở ba mục tiêu của “Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam” là: Thứ nhất, khẳng định vị trí, vai trò và tầm quan trọng của sách đối với việc nâng cao kiến thức, kỹ năng, phát triển tư duy, giáo dục và rèn luyện nhân cách con người; khuyến khích và phát triển phong trào đọc sách trong cộng đồng, tạo dựng môi trường đọc thuận lợi; hình thành thói quen đọc sách trong gia đình, trường học, cơ quan, tổ chức; góp phần xây dựng xã hội học tập. Thứ hai, tôn vinh người đọc, người sáng tác, xuất bản, in, phát hành, thư viện, lưu giữ, sưu tầm, quảng bá sách và các tổ chức, cá nhân có những đóng góp cho phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng. Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng và các tổ chức xã hội đối với việc xây dựng và phát triển văn hóa đọc Việt Nam.
Giai đoạn 2021- 2025 cũng là thời điểm triển khai Kế hoạch 3042/KH-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng.
Năm 2024, bằng Quyết định số 1687/QĐ-TTg ngày 30/12/2024, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Xây dựng mô hình Thư viện cơ sở phục vụ Nhân dân miền núi, biên giới vùng trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Mô hình được xây dựng trên ba quan điểm, trong đó có đề cập đến việc triển khai kiến thức pháp luật. Đó là: (1) Từng bước hình thành “mô hình thư viện cơ sở” dựa trên việc nghiên cứu, tích hợp phù hợp nguồn tài nguyên thông tin (sách, báo, tài liệu và tài nguyên thông tin khác nếu có) của một số thiết chế và tủ sách ở cơ sở trên cùng địa bàn, gắn với sự hỗ trợ của thư viện công cộng cấp tỉnh trong việc đa dạng hóa các hình thức phục vụ, phát triển thư viện lưu động và thư viện số, góp phần tăng cường tiếp cận thông tin pháp luật và hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tại khu vực miền núi, biên giới vùng trung du và miền núi phía Bắc. (2) Việc xây dựng “mô hình thư viện cơ sở” phải dựa trên nhu cầu, thị hiếu của người dân và đặt trong sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ. (3) Phát huy mọi nguồn lực để duy trì bền vững, hiệu quả “mô hình thư viện cơ sở”, trong đó ngoài vai trò của Nhà nước, chú trọng xã hội hóa với sự tham gia tích cực của các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp. Xây dựng Tủ sách pháp luật: thực trạng và những “nút thắt”
Năm 2024, Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) Trung ương chỉ đạo các địa phương trong cả nước thực hiện tổng kết 05 năm thực hiện Quyết định số 14/2019/QĐ-TTg ngày 13/3/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật (TSPL). Ngược dòng thời gian, trước khi Quyết định số 14/2019/QĐ-TTg được ban hành thì TSPL được xây dựng và hoạt động theo Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng, quản lý, khai thác TSPL. Trong giai đoạn này, việc xây dựng, khai thác, quản lý TSPL ở các cơ quan, đơn vị và các xã, phường, thị trấn từng bước đi vào ổn định và phát huy hiệu quả, góp phần tích cực trong công tác tuyên truyền, PBGDPL cho cán bộ và Nhân dân.
Theo Báo cáo của Bộ Tư pháp[1], về mô hình, đối với TSPL xã, cả nước hiện có 1.866 TSPL tại xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, xã thuộc các huyện nghèo; có 8.950 TSPL tại các xã, phường, thị trấn xây dựng theo Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg tiếp tục duy trì. Phần lớn TSPL ở xã được đặt tại Phòng Tiếp công dân của UBND xã, phòng thủ tục hành chính tộm“ cửa”, văn phòng,... Tại các cơ sở giáo dục, nếu có TSPL đều thực hiện rà soát, thống kê các đầu sách pháp luật hiện còn hiệu lực và chuyển thành ngăn sách pháp luật tham khảo trong thư viện trường, thuận lợi cho cán bộ, giáo viên, học sinh, sinh viên nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật. Sách được lưu giữ, quản lý dưới dạng số khai thác thông qua truy cập máy tính, các thiết bị điện tử thông minh rất thuận tiện trong quá trình tra cứu, truy cập. Tại các cơ quan, đơn vị của lực lượng vũ trang, việc triển khai xây dựng và đưa TSPL vào quản lý, khai thác bảo đảm đúng quy định và có nhiều mô hình, cách làm hay, hiệu quả. Trong lực lượng quân đội nhân dân, TSPL được xây dựng ở cấp đại đội độc lập, tiểu đoàn và tương đương trở lên nhằm phục vụ nhu cầu học tập, tìm hiểu pháp luật; TSPL cơ quan, đơn vị cấp trung đoàn và tương đương trở lên phục vụ nhu cầu nghiên cứu, áp dụng pháp luật. Hiện toàn quân xây dựng được 6.029 TSPL với hàng triệu đầu sách, báo, tài liệu các loại.
Bên cạnh đó, Hội đồng phối hợp PBGDPL Bộ Quốc phòng thường xuyên chỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng cơ sở dữ liệu, hệ thống văn bản pháp luật quân sự quốc phòng, số hóa tài liệu, cập nhật văn bản, tài liệu mới; hướng dẫn, giúp đỡ người đọc tra cứu tài liệu, tìm tại thư viện số; tiếp nhận và đưa vào sử dụng tài khoản nguồn thông tin của Cổng Thông tin điện tử Bộ Quốc phòng, Cổng Thông tin điện tử ngành Pháp chế Quân đội. Trong lực lượng Công an nhân dân, Công an các đơn vị, địa phương đã xây dựng hơn 3.300 TSPL với hơn 80.000 đầu sách, đồng thời đã kịp thời, thường xuyên bổ sung sách, tài liệu pháp luật mới, có chất lượng, thiết thực, nội dung phù hợp với nhu cầu của cán bộ, chiến sĩ, chú trọng sách hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, giải đáp pháp luật. Xây dựng TSPL điện tử quốc gia được Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng TSPL điện tử trên Trang Thông tin PBGDPL thuộc Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp (nay là trên Cổng Thông tin điện tử PBGDPL quốc gia) với nhiều chuyên mục hấp dẫn, được đặt đường link với Cơ sở dữ liệu quốc gia về văn bản pháp luật, Công báo điện tử nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính. Tuy nhiên, để TSPL thực sự phát huy lợi ích thiết thực, công tác quản lý, khai thác cần được các cấp, ngành quan tâm hơn nữa và có các giải pháp đổi mới trong thiết lập TSPL, trong đó bao gồm cả chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin ở mức độ phù hợp. Những vấn đề bất cập đã được nhìn nhận, nhất là ở cấp xã và các cơ quan hành chính nhà nước như kinh phí bổ sung sách, tài liệu cho mô hình TSPL truyền thống bị hạn chế do sự phổ biến, thông dụng trong việc truy cập thông tin trên mạng internet[2]; nhân lực phụ trách TSPL chủ yếu là cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã, nhưng đến nay với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp thì đội ngũ này không còn. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật lớn, thường xuyên có sự thay đổi nên việc cập nhật, bổ sung kịp thời văn bản mới cho TSPL gặp nhiều khó khăn; số lượng đầu sách chưa phong phú, chưa đáp ứng nhu cầu của số đông người đọc; một số cơ quan, đơn vị, địa phương duy trì TSPL còn mang tính hình thức, chưa phát huy hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực; một số nơi, khi văn bản pháp luật được bổ sung đến Tủ sách thì đã lạc hậu; “tư tưởng” chỉ khi nào có yêu cầu nhiệm vụ hoặc phát sinh quyền, nghĩa vụ liên quan đến lĩnh vực nào đó mới tìm hiểu mà chưa có thói quen chủ động tự tìm hiểu vẫn còn phổ biến. Trên thực tế, nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương không còn duy trì TSPL bởi những bất cập hiện hữu nói trên.
Tổng kết 5 năm thực hiện Quyết định số 14/2019/QĐ-TTg, Bộ Tư pháp đã đánh giá các “nút thắt” trong “bài toán” TSPL. Đó là: Thứ nhất, công tác chỉ đạo, hướng dẫn ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa thường xuyên, sát sao; công tác kiểm tra, khảo sát về xây dựng, quản lý, khai thác TSPL chưa được thực hiện định kỳ. Thứ hai, chất lượng sách, báo, tài liệu pháp luật trong một số TSPL chưa thực sự phù hợp và chưa đáp ứng nhu cầu của người đọc. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật nhiều, thường xuyên sửa đổi, bổ sung nên việc rà soát, cập nhật, bổ sung chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời; số lượng đầu sách bổ sung hằng năm ít; đầu sách chưa đa dạng, phong phú. Một số nơi, hiệu quả hoạt động của TSPL thấp; việc luân chuyển sách, tài liệu pháp luật giữa TSPL cấp xã với các loại hình TSPL khác trên địa bàn chưa được thực hiện thường xuyên. Vẫn còn một số cơ sở thực hiện chưa nghiêm túc việc ban hành nội quy hoạt động, mở sổ theo dõi, quản lý sách, tài liệu pháp luật trong Tủ sách. Thứ ba, việc khai thác, sử dụng TSPL của cán bộ, công chức là chủ yếu, song cũng giảm đáng kể so với trước đây; tỷ lệ người dân đến đọc, mượn sách rất ít, hầu như không có người đến đọc, mượn sách. Một số trường hợp khi người dân có những vướng mắc về pháp luật song chưa chú trọng đến việc tra cứu, tìm hiểu kỹ các quy định pháp luật được trang bị tại TSPL. Thứ tư, TSPL điện tử đã được Bộ Tư pháp xây dựng theo hướng tích hợp trong Cổng Thông tin điện tử PBGDPL quốc gia, nhưng hiện nay, dữ liệu trong Tủ sách chưa nhiều, chưa kết nối, chia sẻ dữ liệu với Cổng/Trang thông tin PBGDPL của bộ, ngành, địa phương. Thứ năm. công tác bồi dưỡng, tập huấn, xây dựng tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ quản lý, khai thác Tủ sách cho cán bộ phụ trách Tủ sách còn chưa thường xuyên; chưa đáp ứng điều kiện về cơ sở vật chất cho TSPL. Gỡ “nút thắt” TSPL bằng mô hình Thư viện cơ sở Từ nhận diện nguyên nhân để “gỡ”... Về chủ quan, cũng cần thừa nhận một bộ phận lãnh đạo địa phương, cơ quan, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm trong chỉ đạo, triển khai TSPL; công tác tham mưu cũng ở một chừng mực nhất định, chưa tích cực trong lập dự toán, trong tuyên truyền nhằm củng cố nâng cao chất lượng cho TSPL. Về khách quan, trong giai đọan đầu tư cho thể chế, tài liệu, văn bản pháp luật rất nhiều nhưng trên thực tế lại chưa có nhiều đầu sách pháp luật thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của cán bộ, công chức ở cơ sở và Nhân dân do việc biên soạn, phát hành sách, tài liệu pháp luật phục vụ cơ sở có nơi, có lúc chưa dựa trên sự nghiên cứu, khảo sát kỹ về nhu cầu, trình độ và khả năng tiếp cận thông tin pháp luật, khả năng tài chính của cấp xã; còn thiếu cả về số lượng và chất lượng sách pháp luật bằng tiếng dân tộc. Các cơ chế, thể chế cho tủ sách pháp luật từ nội dung, hình thức, địa điểm, kinh phí… đều ít nhiều bộc lộ những khiếm khuyết. Đặc biệt kinh phí xây dựng, quản lý, khai thác TSPL còn hạn hẹp; nhiều địa phương chưa bảo đảm được định mức tối thiểu 03 triệu đồng/tủ/năm theo quy định, cá biệt nhiều Tủ sách không được bố trí kinh phí để hoạt động; nguồn kinh phí đầu tư từ ngân sách trung ương hoặc kinh phí hỗ trợ từ nguồn ngoài ngân sách nhà nước hầu như không có. Công tác xã hội hóa trong xây dựng, quản lý TSPL chưa được nhân rộng; giá sách pháp luật cũng là một vấn đề, còn cao so với khả năng, điều kiện tài chính của UBND cấp xã, nhất là ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. ...đến ý tưởng về một cơ chế mới cho TSPL Tại Quyết định số 1687/QĐ-TTg ngày 30/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Xây dựng mô hình thư viện cơ sở phục vụ Nhân dân miền núi, biên giới vùng trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã gợi mở hướng đi mới cho TSPL khu vực miền núi, biên giới vùng trung du và miền núi phía Bắc. Điều đó được thể hiện ở quan điểm của Chương trình, từng bước hình thành “mô hình thư viện cơ sở” dựa trên việc nghiên cứu, tích hợp phù hợp nguồn tài nguyên thông tin (sách, báo, tài liệu và tài nguyên thông tin khác nếu có) của một số thiết chế và tủ sách ở cơ sở trên cùng địa bàn, gắn với sự hỗ trợ của thư viện công cộng cấp tỉnh trong việc đa dạng hóa các hình thức phục vụ, phát triển thư viện lưu động và thư viện số, góp phần tăng cường tiếp cận thông tin pháp luật và hiệu quả hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng tại khu vực miền núi, biên giới vùng trung du và miền núi phía Bắc. Trên cơ sở tổng kết thực trạng và đánh giá tính cần thiết duy trì TSPL, Bộ Tư pháp đưa ra yêu cầu cần đổi mới quản lý, khai thác TSPL hướng về cơ sở, lấy người dân làm trung tâm. Đối với TSPL tại xã đặc biệt khó khăn, chuyển hướng đối tượng mục tiêu là Nhân dân sinh sống ở cơ sở. Đa dạng hóa các loại hình TSPL ở cộng đồng để phục vụ nhu cầu tìm hiểu pháp luật của Nhân dân. Nghiên cứu, đề xuất giao địa phương trong việc quyết định duy trì TSPL tại xã đặc biệt khó khăn và xây dựng các loại hình TSPL ở cộng đồng phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Nội dung này cơ bản tiệm cận được với mục tiêu của Chương trình “Xây dựng mô hình thư viện cơ sở phục vụ Nhân dân miền núi, biên giới vùng trung du và miền núi phía Bắc giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045”. 14 tỉnh trung du miền núi phía bắc trong đó có tỉnh Thái Nguyên (là 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn trước khi sáp nhập) thuộc phạm vi của Chương trình có trách nhiệm thực nhiện mục tiêu chung, nghiên cứu, tích hợp phù hợp nguồn tài nguyên thông tin từ thư viện công cộng cấp xã (thư viện xã); trung tâm học tập cộng đồng; trung tâm văn hóa/văn hóa - thể thao xã; điểm bưu điện - văn hóa xã; tủ sách pháp luật và sách, tài liệu pháp luật của Đề án trang bị sách cho cơ sở xã, phường, thị trấn và một số cơ sở, loại hình khác nếu phù hợp. Các mục tiêu cụ thể đến năm 2026, năm 2030, năm 2045 tập trung nâng cao tỷ lệ mô hình thư viện cơ sở, tích hợp thư viện công cộng cấp tỉnh bằng các hình thức luân chuyển phục vụ lưu động, qua không gian mạng và tổ chức các hoạt động khuyến đọc; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác thư viện tại thư viện cơ sở, đảm bảo có năng lực cung cấp dịch vụ thư viện và tổ chức các hoạt động khuyến đọc; nâng số lượt người sử dụng thư viện cơ sở phục vụ nhu cầu học tập, tìm kiếm thông tin, nâng cao kiến thức tăng bình quân mỗi năm. Các mục tiêu trên là cơ sở quan trọng để rà soát, hoạch định lại nhu cầu và cách thức duy trì TSPL gắn với tạo dựng hệ thống thư viện cơ sở. Như vậy nhiều địa phương sẽ khôi phục lại được các hoạt động của TSPL thông qua việc thực hiện Chương trình xây dựng thư viện tại các địa bàn cơ sở; trước mắt tập trung cho các tỉnh miền núi, biên giới vùng trung du và miền núi phía Bắc. Các giải pháp được đề xuất cho Chương trình xây dựng thư viện cơ sở cũng đồng thời hé mở các giải pháp cho duy trì TSPL để có thể lồng ghép, đồng hành. Theo Đề án phát triển văn hóa đọc đến năm 2030, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, xây dựng và phát triển thói quen, nhu cầu, kỹ năng và phong trào đọc (xuất bản phẩm in và điện tử) trong mọi tầng lớp Nhân dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên và chú trọng tới người dân ở vùng nông thôn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; cải thiện môi trường đọc; góp phần nâng cao dân trí, phát triển tư duy, khả năng sáng tạo, bồi dưỡng nhân cách, tâm hồn, tăng cường ý thức chấp hành pháp luật, hình thành lối sống lành mạnh trong con người, xã hội Việt Nam, đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập. Với ý nghĩa đó, từ chủ trương duy trì, phát huy công năng của TSPL đến xây dựng Thư viện cơ sở là một cách để góp tiếng nói chung cho phong trào đọc trong văn hóa đọc. Quan trọng hơn, việc thẩm thấu các giá trị văn hóa từ thói quen đọc sách và các ấn phẩm, tài liệu trong phong trào đọc sẽ giúp ích cho việc hình thành nhân cách, tạo nên một thế hệ người Việt Nam có bản lĩnh, trí tuệ, đạo đức với lối sống tự trọng, tự lực, tự cường khi được bồi bổ từ các giá trị nhân văn từ việc đọc. Đọc nói chung và đọc, tìm hiểu pháp luật, các tài liệu có liên quan đến pháp luật nói riêng luôn có sự đồng điệu, bổ sung, gắn kết để xây dựng lối sống thượng tôn Hiến pháp, tuân thủ pháp luật trong thời kỷ đổi mới, hội nhập./
[1] Báo cáo số 257/BC-BTP ngày 20/5/2025 về tổng kết 5 năm thực hiện Quyết định số 14/2019/QĐ-TTg ngày 13/3/2019 của Thủ tướng Chính phủ.
[2] Thói quen này không tránh khỏi thông tin tra cứu đôi khi từ nguồn không chính thống hoặc chưa được kiểm chứng độ chính xác.