MỘT SỐ TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

Thứ sáu - 05/12/2025 04:42 6 0
Tình huống 1: Tiêu chí lựa chọn người có uy tín
Ông Nguyễn Văn Trung là người dân tộc Kinh thường trú tại thôn Bản Chấu, xã Kiến Thiết. Bản thân và gia đình luôn gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Ông Trung đã sinh sống lâu đời ở thôn Bản Chấu nên rất am hiểu về văn hóa, phong tục, tập quán, có nhiều đóng góp cho thôn và được người dân nơi đây tín nhiệm, tin tưởng làm theo. Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân xã, tới đây thôn sẽ tổ chức họp để bình xét người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, lãnh đạo và các đoàn thể trong thôn đã đề xuất, giới thiệu ông Trung để cộng đồng dân cư trong thôn bình xét, tuy nhiên ông Trung có phân vân, bản thân là người dân tộc Kinh (không phải dân tộc thiểu số) thì có được lựa chọn là người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số không?
Trả lời:
Khoản 1, Điều 4 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng chính phủ quy định tiêu chí lựa chọn, công nhận người có uy tín và chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023 quy định tiêu chí lựa chọn người có uy tín như sau:
1. Tiêu chí lựa chọn người có uy tín
a) Là công dân Việt Nam, không phân biệt thành phần dân tộc, cư trú hợp pháp tại Việt Nam.
b) Bản thân và gia đình gương mẫu chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương.
c) Là người tiêu biểu, có nhiều công lao, đóng góp trong các phong trào thi đua yêu nước, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ an ninh trật tự, giữ gìn bản sắc văn hóa và đoàn kết các dân tộc.
d) Hiểu biết về văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán dân tộc; có mối liên hệ chặt chẽ và có ảnh hưởng trong dòng họ, dân tộc và cộng đồng dân cư.
đ) Có khả năng tuyên truyền, vận động, nắm bắt, xử lý thông tin và quy tụ, tập hợp đồng bào dân tộc thiểu số trong phạm vi nhất định bằng lời nói, qua việc làm, cách ứng xử; được người dân trong cộng đồng tín nhiệm, tin tưởng, nghe và làm theo,..”
Căn cứ Điểm a, Khoản 1, Điều 4 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg được sửa đổi, bổ sung năm 2023 thì một trong các tiêu chí chọn người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số là “không phân biệt thành phần dân tộc”. Ông Trung cũng đã đáp ứng các tiêu chí còn lại theo quy định tại Khoản 1, Điều 4 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg. Do đó, ông Nguyễn Văn Trung có đầy đủ tiêu chí về người có uy tín  theo quy định của pháp luật để nhân dân trong thôn bình xét, lựa chọn người có uy tín.
Tình huống 2: Số lượng lựa chọn, công nhận người có uy tín
Vừa qua, xã N (là xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi) có sáp nhập thôn A và thôn B thành 01 thôn mới là thôn AB. Thôn AB có tổ chức họp để bình xét người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Trong thôn AB có 02 người là ông Bình là người có uy tín của thôn A và ông Thái là người có uy tín của thôn B (trước khi sáp nhập). Sau khi sáp nhập cả 2 ông đều đáp ứng đủ các tiêu chí lựa chọn người có uy tín và được sự tín nhiệm cao của người dân. Anh Trung là Trưởng thôn đề nghị cho biết khi bình xét người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số của thôn AB thì được lựa chọn tối đa bao nhiêu người?
Trả lời:
Khoản 3 Điều 4 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng chính phủ quy định tiêu chí lựa chọn, công nhận người có uy tín và chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023 quy định điều kiện, số lượng lựa chọn, công nhận người có uy tín, như sau:
“3. Điều kiện, số lượng lựa chọn, công nhận người có uy tín
a) Mỗi thôn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hoặc thôn của xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là xã) thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được lựa chọn, công nhận 01 (một) người có uy tín,..”
b) Trường hợp thôn thành lập mới do sáp nhập các thôn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hoặc thôn của xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi kể từ ngày 15/01/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định số lượng người có uy tín được lựa chọn, công nhận nhưng không quá tổng số lượng thôn được sáp nhập”
Điều 13 Nghị định 124/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 của Chính phủ quy định về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo quy định thẩm quyền quyết định số lượng người có uy tín trong trường hợp thôn thành lập mới do sáp nhập các thôn như sau:
“Việc quyết định số lượng người có uy tín trong trường hợp thôn thành lập mới do sáp nhập các thôn theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 4 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg thuộc thẩm quyền thực hiện của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.”
Căn cứ quy định trên, thôn AB được sáp nhập từ 02 thôn (là thôn A và thôn B), Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã là người có thẩm quyền xem xét, quyết định số lượng người có uy tín được lựa chọn, công nhận nhưng không quá tổng số lượng thôn được sáp nhập, do đó trong trường hợp này, người thôn AB được lựa chọn, công nhận tối đa là 02 người có uy tín. Anh Trung với vai trò là Trưởng thôn có thể tổ chức lấy ý kiến người dân để lựa chọn người có uy tín bằng các hình thức phù hợp để tiến hành đề nghị cấp có thẩm quyền công nhận theo quy định.
Tình huống 3: Chế độ, chính sách về cung cấp thông tin
Ông Ngọc mới được bầu là người có uy tín của thôn X, xã Y. Ông là người rất trách nhiệm với công việc được giao, là một người có uy tín trong thôn ông cần tìm hiểu thêm kiến thức pháp luật và cập nhật các thông tin thời sự để kịp thời phổ biến đến người dân. Nhưng ông không biết lấy nguồn thông tin chính thống từ đâu nên Ông thắc mắc với Trưởng xóm là hiện nay Nhà nước có những chế độ, chính sách gì cung cấp thông tin cho người có uy tín nhưng Trưởng xóm lúng túng chưa trả lời được. Trong tình huống này pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời:
Khoản 1 Điều 5 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng chính phủ được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023 quy định chế độ, chính sách về cung cấp thông tin, như sau:
“- Định kỳ hoặc đột xuất người có uy tín được phổ biến, cung cấp thông tin mới về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tình hình, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh trật tự và kết quả thực hiện các Chương trình, dự án, chính sách dân tộc đang thực hiện ở địa phương;
- Người có uy tín được cấp (không thu tiền):
+ Một ấn phẩm báo của Cơ quan ngôn luận thuộc cơ quan quản lý nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dân tộc và công tác dân tộc (01 tờ/người/kỳ/tháng), bảo đảm điều kiện về tôn chỉ, mục đích hoạt động thông tin, tuyên truyền về công tác dân tộc, chính sách dân tộc, có năng lực và kinh nghiệm xuất bản, phát hành báo cho người có uy tín;
+ Một ấn phẩm báo của địa phương (01 tờ/người/kỳ) hoặc hình thức cung cấp thông tin khác do địa phương lựa chọn.
- Hằng năm, người có uy tín được tập huấn, bồi dưỡng, cung cấp thông tin theo hình thức phù hợp do địa phương quyết định về pháp luật, quốc phòng, an ninh; thông tin, kiến thức cơ bản về công tác dân tộc và chính sách dân tộc; kiến thức, kỹ năng khai thác, sử dụng, xử lý thông tin trên Internet, mạng xã hội và các kỹ năng hòa giải, tuyên truyền, vận động quần chúng.”
Căn cứ quy định nêu trên, Ông Ngọc là người có uy tín của thôn nên sẽ được hưởng các chế độ, chính sách về cung cấp thông tin như được phổ biến, cung cấp thông tin mới; hàng tháng được cấp 01 ấn phẩm báo của cơ quan ngôn luận thuộc cơ quan nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dân tộc và công tác dân tộc, 01 ấn phẩm báo của địa phương hoặc hình thức khác do địa phương lựa chọn, ngoài ra được tập huấn, bồi dưỡng, cung cấp thông tin, kiến thức cơ bản về công tác dân tộc và chính sách dân tộc…
Tình huống 4: Chế độ, chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số
Bà Lý Thị Ngát là người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số của thôn Khuẩy Nặm, vừa qua bão lớn gió to, mưa lớn bị giật tốc hết mái nhà, kèm khi mưa xuống làm hư hỏng nhiều vật dụng trong nhà như: Tivi, tủ lạnh, bếp điện,…, gia đình bà Ngát gặp rất nhiều khó khăn. Những thiệt hại về thiên tai này đã được UBND xã nơi bà Ngát cư trú xác nhận. Thôn tổ chức họp bàn về việc hỗ trợ các gia đình bị thiệt hại sau bão và các công việc tổng kết cuối năm, tặng quà Tết Nguyên đán. Ông Nam là Trưởng xóm có ý kiến trường hợp nhà bà Ngát được hỗ trợ 2.000.000 đồng đối với thiệt hại sau bão lũ và được thăm hỏi, tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán là 500.000 đồng nữa. Bà Lan là chi hội trưởng chi hội phụ nữ thôn có ý kiến là hộ nhà bà Ngát chỉ được hỗ trợ 500.000 đồng thôi. Cuộc họp vẫn chưa đi đến thống nhất bởi có nhiều ý kiến. Đề nghị cho biết trong tình huống trên, gia đình bà Ngát có được thăm hỏi, hỗ trợ không; nếu có thì định mức như thế nào?
Trả lời:
Khoản 2 Điều 5 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng chính phủ được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023 quy định chế độ, chính sách đối với người có uy tín như sau:
“ 2. Hỗ trợ vật chất, động viên tinh thần
a) Thăm hỏi, tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán, Tết hoặc Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là tỉnh) do địa phương lựa chọn. Mức chi tối đa trị giá 500.000 đồng/người/lần và không quá 02 (hai) lần/năm;
b) Người có uy tín ốm đau đi điều trị bệnh, có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước được thăm hỏi, hỗ trợ không quá 01 lần/người/năm. Mức chi tối đa trị giá: 3.000.000 đồng/người/năm khi điều trị bệnh tại các cơ sở tuyến Trung ương và tương đương; 1.500.000 đồng/người/năm khi điều trị tại các cơ sở tuyến tỉnh và tương đương; 800.000 đồng/người/năm khi điều trị tại cơ sở tuyến huyện và tương đương; 500.000 đồng/người/năm khi điều trị tại cơ sở tuyến xã và tương đương;
c) Thăm hỏi, hỗ trợ hộ gia đình người có uy tín gặp khó khăn đột xuất do sự cố, thiên tai, hỏa hoạn được chính quyền cấp xã nơi cư trú xác nhận. Mức chi tối đa trị giá 2.000.000 đồng/hộ gia đình/năm,...”
Căn cứ quy định trên, Bà Ngát là người có uy tín của Thôn cho nên theo quy định hộ gia đình bà Ngát gặp khó khăn do thiên tai nên được thăm hỏi, hỗ trợ với mức chi tối đa trị giá 2.000.000 đồng, ngoài ra vào dịp Tết Nguyên đán nên bà được thăm hỏi, tặng quà với mức chi tối đa trị giá 500.000 đồng.
Tình huống 5: Trình tự, thủ tục công nhận người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số
Thôn Nác chuẩn bị tổ chức họp để lựa chọn người có uy tín của thôn. Ông Thắng là Trưởng ban Công tác Mặt trận thôn có ý kiến sau khi họp thôn thì phải tổ chức họp liên tịch. Anh Dũng là Chi hội trưởng Hội Nông dân của thôn lại cho rằng không cần phải họp liên tịch. Các ý kiến vẫn tranh luận xoay quanh vấn đề trình tự công nhận người có uy tín. Đề nghị cho biết trong tình huống trên pháp luật quy định về trình tự, thủ tục công nhận người có uy tín như thế nào?
Trả lời:
Căn cứ Điều 12 Nghị định 124/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 quy định về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo; Khoản 1 Điều 6 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng chính phủ được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023 quy định về trình tự, thủ tục công nhận người có uy tín, như sau:
“1. Công nhận người có uy tín
a) Trưởng thôn tổ chức họp thôn (có sự tham gia của ít nhất 2/3 số hộ gia đình trong thôn) để phổ biến về nội dung chính sách, tiêu chí, điều kiện, số lượng và đề cử danh sách lựa chọn người có uy tín (theo Mẫu số 01 Phụ lục kèm theo Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg) gửi Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn;
b) Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn tổ chức họp liên tịch (có sự tham gia của đại diện Chi ủy, chính quyền, Ban công tác Mặt trận, các tổ chức đoàn thể và đại diện hộ dân trong thôn), lập văn bản đề nghị kèm theo biên bản họp liên tịch thôn (theo Mẫu số 02 Phụ lục kèm theo Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg) gửi Ủy ban nhân dân cấp xã;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của thôn, Ủy ban nhân dân cấp xã tổng hợp, kiểm tra, lập hồ sơ (01 bộ, gồm: văn bản đề nghị, biên bản kiểm tra theo Mẫu số 3 Phụ lục kèm theo Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg, bản tổng hợp danh sách đề nghị công nhận người có uy tín theo Mẫu số 4 Phụ lục kèm theo Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg) gửi xin ý kiến cơ quan chuyên môn về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh;
d) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của xã, cơ quan chuyên môn về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan kiểm tra, rà soát và có văn bản trả lời Ủy ban nhân dân cấp xã;
đ) Chậm nhất sau 10 ngày làm việc kể từ ngày có văn bản thống nhất của cơ quan chuyên môn về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định công nhận người có uy tín trên địa bàn xã (danh sách theo Mẫu số 01 Phụ lục III kèm theo Nghị định này) và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (qua cơ quan chuyên môn về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh) kết quả thực hiện để theo dõi, chỉ đạo.”
Như vậy, Trong trường hợp này sau khi Trưởng thôn tổ chức họp thôn để phổ biến về nội dung chính sách, tiêu chí, điều kiện, số lượng và đề cử danh sách lựa chọn người có uy tín thì Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn tổ chức họp liên tịch (có sự tham gia của đại diện Chi ủy, chính quyền, Ban công tác Mặt trận, các tổ chức đoàn thể và đại diện hộ dân trong thôn), lập văn bản đề nghị kèm theo biên bản họp liên tịch thôn gửi Ủy ban nhân dân cấp xã đề nghị công nhận người có uy tín trong theo nội dung như đã nêu ở trên.
Tình huống 6: Trình tự, thủ tục đưa ra khỏi danh sách người có uy tín
Ông Bùi Thế Quang là người có uy tín tại thôn Minh Lập. Tháng 3/2024, ông chuyển lên sinh sống cùng với gia đình con trai tại tỉnh Lào Cai. Trưởng ban công tác Mặt trận của Thôn là anh Giàng lúng túng không biết ông Bùi Thế Quang có được tiếp tục là người có uy tín tại thôn Minh Lập nữa hay không và nếu không thì trình tự, thủ tục đưa ông Bùi Thế Quang ra khỏi danh sách người có uy tín của thôn được thực hiện như thế nào?
Trả lời:
Khoản 2 Điều 6 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng chính phủ được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023 quy định việc đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín được thực hiện trong các trường hợp sau:
“2. Các trường hợp đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín
Việc đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín được thực hiện đồng thời và ngay khi xảy ra các trường hợp: Người có uy tín chết; vi phạm pháp luật; không đảm bảo tiêu chí lựa chọn người có uy tín; mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật; đã chuyển nơi khác sinh sống hoặc do sức khỏe yếu, tự nguyện xin rút khỏi danh sách người có uy tín”.
Điều 12 Nghị định 124/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 quy định về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực công tác dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo; Khoản 3 Điều 6 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg ngày 06/3/2018 của Thủ tướng chính phủ được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 28/2023/QĐ-TTg ngày 23/11/2023 quy định trình tự, thủ tục đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín, như sau:
“3. Đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín
a) Khi có trường hợp cần đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg, Trưởng Ban công tác Mặt trận thôn thống nhất với Chi ủy chi bộ và tổ chức họp liên tịch (có sự tham gia của đại diện Chi ủy, chính quyền, Ban công tác Mặt trận, các tổ chức đoàn thể và đại diện hộ dân trong thôn), lập văn bản đề nghị đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín (kèm theo biên bản họp liên tịch thôn theo Mẫu số 02 và Mẫu số 06 Phụ lục kèm theo Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg) gửi Ủy ban nhân dân cấp xã;
b) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của thôn, Ủy ban nhân dân cấp xã kiểm tra, tổng hợp và lập hồ sơ (01 bộ, gồm: văn bản đề nghị; biên bản kiểm tra theo Mẫu số 03 và Mẫu số 07 Phụ lục kèm theo Quyết định số 12/2018/QĐ-TTg; bản tổng hợp danh sách đề nghị đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín theo Mẫu số 02 Phụ lục III kèm theo Nghị định này) gửi cơ quan chuyên môn về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của xã, cơ quan chuyên môn về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh kiểm tra, rà soát và có văn bản trả lời Ủy ban nhân dân cấp xã;
d) Chậm nhất sau 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản thống nhất của cơ quan chuyên môn về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín (danh sách theo Mẫu số 03 Phụ lục III kèm theo Nghị định này), báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (qua cơ quan chuyên môn dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh) kết quả thực hiện để theo dõi, chỉ đạo.
Định kỳ hằng năm các tỉnh rà soát, tổng hợp số lượng, danh sách người có uy tín, báo cáo Ủy ban Dân tộc trước ngày 31 tháng 12 của năm để theo dõi, chỉ đạo.”
Như vậy, trong trường hợp này, ông Bùi Thế Quang đã chuyển đến tỉnh Lào Cai sinh sống cùng gia đình con trai từ tháng 3/2024, không còn sinh sống tại thôn Minh Lập nữa (đây là một trong các trường hợp bị đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín), do đó, ông Bùi Thế Quang không còn được công nhận là người có uy tín tại thôn Minh Lập. Căn cứ hướng dẫn nêu trên Trưởng ban công tác Mặt trận của thôn Minh Lập thống nhất với Chi ủy chi bộ và tổ chức họp liên tịch (có sự tham gia của đại diện Chi ủy, chính quyền, Ban công tác Mặt trận, các tổ chức đoàn thể và đại diện hộ dân trong thôn), lập văn bản đề nghị đưa ra khỏi danh sách và thay thế, bổ sung người có uy tín gửi Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tình huống 7: Đối tượng được hỗ trợ thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp
Chị Mỷ là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại thôn Khuẩy Nặm, xã Thanh Bình (thôn Khuẩy Nặm là thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi). Chị Mỷ có đơn đề nghị Ủy ban nhân dân xã Thanh Bình thực hiện việc hỗ trợ khởi sự kinh doanh với mô hình kinh doanh giống cây nông nghiệp trên địa bàn xã từ nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi. Công chức xã tiếp nhận đề nghị của chị Mỷ trả lời rằng chị không thuộc đối tượng hỗ trợ vì chị không thuộc hộ nghèo. Trong tình huống này, công chức xã trả lời như vậy là đúng hay sai, tại sao?
Trả lời:
Điều 25 Thông tư số 02/2022/TT-UBDT ngày 30/6/2022 của Uỷ ban Dân tộc hướng dẫn thực hiện một số dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn 1 từ năm 2021 đến năm 2025 được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 02/2023/TT-UBDT ngày 21/8/2023 của Uỷ ban Dân tộc quy định đối tượng được hỗ trợ thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp như sau:
“1. Doanh nghiệp, HTX đang hoạt động trên địa bàn các xã ĐBKK thuộc vùng đồng bào DTTS&MN có kế hoạch mở rộng kinh doanh, sản xuất.
2. Các doanh nghiệp, HTX mới thành lập có các hoạt động và sử dụng lao động trên địa bàn các xã ĐBKK thuộc vùng đồng bào DTTS&MN.
3. Các trường đại học có đông sinh viên dân tộc thiểu số theo học và có các hoạt động hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh tại các xã đặc ĐBKK thuộc vùng đồng bào DTTS&MN.
4. Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số, hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống tại các xã, thôn vùng đồng bào DTTS&MN.”
Theo quy định trên, đối tượng được hỗ trợ thúc đẩy khởi nghiệp có đối tượng là cá nhân người dân tộc thiểu số sinh sống tại các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Không quy định phải là hộ nghèo. Trong trường hợp này, chị Mỷ là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nên chị Mỷ thuộc đối tượng được hỗ trợ thúc đẩy khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp.
Trong tình huống này công chức cấp xã trả lời chị Mỷ không thuộc đối tượng được hỗ trợ là chưa đúng.
Tình huống 8: Nội dung và cách thức thực hiện hỗ trợ nhà ở theo Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi
Bà Mai là người dân tộc Kinh, Hộ gia đình bà Mai là hộ nghèo, sinh sống tại thôn Bản Chấu, xã Ngọc Lâm (thôn Bản Chấu là thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi). Hộ bà Mai chưa có nhà ở, Bà Mai đề nghị Ủy ban nhân dân xã hỗ trợ nhà ở theo Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi và bà đề nghị nếu được hỗ trợ thì để gia đình bà tự thực hiện xây dựng nhà. Trong tình huống này, công chức cấp xã lúng túng trong việc xác định hộ bà Mai có thuộc đối tượng được hỗ trợ nhà ở theo Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi không vì bà Mai là người dân tộc Kinh và gia đình bà Mai có được phép tự thực hiện xây dựng nhà không và nội dung hỗ trợ như thế nào?
Trả lời:
Điều 6 Thông tư số 02/2022/TT-UBDT ngày 30/6/2022 của Uỷ ban Dân tộc hướng dẫn thực hiện một số dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn 1 từ năm 2021 đến năm 2025 được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 02/2023/TT-UBDT ngày 21/8/2023 của Uỷ ban Dân tộc quy định quy định đối tượng được hỗ trợ nhà ở như sau:
1. Hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo sinh sống trên địa bàn vùng đồng bào DTTS&MN; hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã ĐBKK, thôn ĐBKK vùng đồng bào DTTS&MN chưa có nhà ở hoặc nhà ở bị dột nát, hư hỏng.”
Điều 7 Thông tư số 02/2022/TT-UBDT ngày 30/6/2022 của Uỷ ban Dân tộc hướng dẫn thực hiện một số dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 02/2023/TT-UBDT ngày 21/8/2023 của Uỷ ban Dân tộc quy định quy định nội dung hỗ trợ nhà ở và cách thức thực hiện như sau:
“1. Hỗ trợ đầu tư xây dựng mới 01 căn nhà theo phong tục tập quán của địa phương đáp ứng yêu cầu về chất lượng nhà ở theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 01/2022/TT-BXD ngày 30 tháng 6 năm 2022 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng hướng dẫn thực hiện hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn các huyện nghèo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 (sau đây viết tắt là Thông tư số 01/2022/TT-BXD). Mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước quy định tại khoản 2 Điều 3 và khoản 2 Điều 4 Quyết định số 04/2023/QĐ-TTg; cơ chế hỗ trợ áp dụng cơ chế đặc thù trong hỗ trợ đầu tư cho các đối tượng chính sách thuộc nội dung của chương trình mục tiêu quốc gia quy định tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 38/2023/NĐ-CP,
2. Hỗ trợ vay vốn để xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo nhà ở hiện có đáp ứng yêu cầu về chất lượng nhà ở theo quy định tại Điều 4 Thông tư số 01/2022/TT-BXD. Nội dung cho vay hỗ trợ nhà ở quy định tại các Điều 14, 15, 16, 17, 18 và 19 Nghị định số 28/2022/NĐ-CP.
3. Tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương, căn cứ nguyện vọng của các đối tượng thụ hưởng, UBND cấp xã hướng dẫn các hộ gia đình tự tổ chức xây dựng mới nhà ở bằng nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, vốn vay tín dụng của Ngân hàng Chính sách Xã hội và nguồn vốn hợp pháp khác (nếu có); hướng dẫn các hộ gia đình tự tổ chức sửa chữa, cải tạo nhà ở từ nguồn vay vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách Xã hội và nguồn vốn hợp pháp khác (nếu có). Trường hợp người dân không thể tự xây mới hoặc sửa chữa, cải tạo nhà ở, UBND cấp xã chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức đoàn thể xã hội hỗ trợ các đối tượng thụ hưởng xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo nhà ở đảm bảo yêu cầu về chất lượng nhà ở theo quy định.”.
Căn cứ vào những quy định nêu triên, trong tình huống này:
1. Bà Mai là người dân tộc Kinh nhưng bà thuộc hộ nghèo sinh sống ở thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và chưa có nhà ở nên hộ bà Mai thuộc đối tượng được hỗ trợ nhà ở theo Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi
2. và Ủy ban nhân dân xã sẽ hướng dẫn các hộ gia đình tự tổ chức xây dựng nhà ở, trường hợp người dân không thể tự xây dựng nhà ở thì Ủy ban nhân dân xã chỉ đạo, hướng dẫn các tổ chức đoàn thể xã hội hỗ trợ các đối tượng thụ hưởng xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo nhà ở đảm bảo yêu cầu về chất lượng nhà ở theo quy định. Theo đó, bà Mai được tự thực hiện xây dựng nhà.
3. Về nội dung hỗ trợ, hộ bà Mai được hỗ trợ đầu tư xây dựng 01 căn nhà theo phong tục tập quán của địa phương, đảm bảo diện tích sử dụng tối thiểu 30m2 “3 cứng” (nền cứng, khung - tường cứng, mái cứng) và tuổi thọ căn nhà từ 20 năm trở lên.
Tình huống 9: Đối tượng được hỗ trợ đất sản xuất
Hộ chị Mẩy là hộ nghèo, dân tộc thiểu số, sinh sống tại thôn Khuổi Nặm, xã Na Hang (thôn Khuổi Nặm thuộc thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi). Hộ chị Mẩy có đất sản xuất nhưng rất ít, còn thiếu 70% đất sản xuất theo định mức do UBND tỉnh quy định. Chị Mẩy đã đề nghị hỗ trợ đất sản xuất theo Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi. Trong tình huống trên hộ chị Mẩy có thuộc đối tượng được hỗ trợ đất sản xuất không? Nếu có thì được hỗ trợ như thế nào?
Trả lời:
Điểm b mục 1 phần III Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 quy định đối tượng được giải quyết tình trạng thiếu đất ở gồm: 
b) Hộ dân tộc thiểu số nghèo; hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chưa có đất ở; chưa có nhà ở hoặc nhà ở bị dột nát, hư hỏng; làm nghề nông, lâm, ngư nghiệp nhưng không có hoặc thiếu trên 50% đất sản xuất theo định mức quy định của địa phương; có khó khăn về nước sinh hoạt. Ưu tiên hộ nghèo dân tộc thiểu số thuộc danh sách các dân tộc còn gặp nhiều khó khăn, có khó khăn đặc thù; hộ nghèo có phụ nữ là chủ hộ và là lao động duy nhất, trực tiếp nuôi dưỡng người thân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến độ tuổi lao động.”
 Về nội dung hỗ trợ, theo quy định tại điểm b mục 1 phần III Quyết định số 1719/QĐ-TTg, quy định nội dung hỗ trợ như sau:
“c) Nội dung:

- Nội dung số 03: Hỗ trợ đất sản xuất, chuyển đổi nghề: Hộ dân tộc thiểu số nghèo; hộ nghèo dân tộc Kinh sinh sống ở xã đặc biệt khó khăn, thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi làm nghề nông, lâm, ngư nghiệp không có hoặc thiếu từ 50% đất sản xuất trở lên theo định mức của địa phương thì được hưởng một trong hai chính sách sau:
…”
Căn cứ các quy định nêu trên, có thể khẳng định:
1. Hộ chị Mẩy là hộ nghèo, dân tộc Kinh, sinh sống tại thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thiếu trên 50% đất sản xuất theo định mức quy định của tỉnh quy định nên thuộc trường hợp được hỗ trợ đất sản xuất theo Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi.
2. Hộ chị Mẩy được hưởng một trong hai chính sách sau: (1) Hỗ trợ trực tiếp đất sản xuất: nếu có nhu cầu thì được chính quyền địa phương trực tiếp giao đất sản xuất; (2) Hỗ trợ chuyển đổi nghề: Trường hợp chính quyền địa phương không bố trí được đất sản xuất thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề.
Tình huống 10: Hình thức hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán
Hộ ông Khà là hộ nghèo, dân tộc thiểu số, sinh sống tại thôn Bản Tát, xã Tri Phương (thôn Bản Tát là thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi). Hộ ông Khà thuộc diện được hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán theo Chương trình mục tiêu quốc gia dân tộc thiểu số và miền núi với định mức hỗ trợ là 3.000.000 đồng/hộ. Ông Khà đề nghị được hỗ trợ bằng hình thức mua téc trữ nước (vì nhà ông đã có nguồn nước sinh hoạt ổn định rồi). Tuy nhiên, khi tổng hợp nhu cầu của nhà ông Khà thì Trưởng thôn nói rằng Nhà nước không hỗ trợ để mua téc nước mà chỉ hỗ trợ để đào giếng thôi. Trong tình huống này, ý kiến của Trưởng thôn là đúng hay sai, tại sao?
Trả lời:
Ý kiến của Trưởng thôn là sai, vì:
Điểm a Khoản 1 Điều 11 Thông tư số 02/2022/TT-UBDT ngày 30/6/2022 của Uỷ ban Dân tộc Hướng dẫn thực hiện một số dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025 được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 02/2023/TT-UBDT ngày 21/8/2023 của Uỷ ban Dân tộc quy định về hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán như sau: 
“1. Hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán
a) Các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 10 Thông tư này thì được xem xét hỗ trợ để tạo nguồn nước phục vụ sinh hoạt hoặc mua sắm vật dụng chứa nước sinh hoạt.
b) Cách thức hỗ trợ nước sinh hoạt được sử dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của từng thôn, xã và điều kiện sinh hoạt của hộ gia đình như: đào giếng, mua vật dụng dẫn nước, trữ nước (lu, bồn, téc, vật dụng chứa nước; tự làm bể chứa nước) hoặc tự tạo nguồn nước khác đảm bảo nguyên tắc các hộ được hỗ trợ kinh phí phải có nước sinh hoạt ổn định và được bố trí ở khu vực thuận tiện cho sinh hoạt gia đình.
c) Tùy theo tình hình thực tế của từng địa phương, căn cứ nguyện vọng của các đối tượng thụ hưởng, có thể tiến hành hỗ trợ theo nhóm hộ để xây dựng những công trình sử dụng chung, nhóm hộ phải tự nguyện, cam kết bảo dưỡng và duy trì công trình, đảm bảo có nguồn nước ổn định. Số lượng thành viên nhóm hộ trên cơ sở bàn bạc, thống nhất của người dân.”
Theo quy định trên thì có nhiều hình thức hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán, như: đào giếng; mua vật dụng dẫn nước, trữ nước; tự tạo nguồn nước khác. Theo đó, ý kiến của Trưởng thôn là chưa đúng, hộ ông Khà có quyền đề nghị hỗ trợ bằng hình thức mua téc trữ nước.

Tác giả bài viết: BBT

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thăm dò ý kiến

Bạn biết tới Cổng thông tin PBGDPL Thái Nguyên qua đâu ?

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập71
  • Máy chủ tìm kiếm4
  • Khách viếng thăm67
  • Hôm nay15,962
  • Tháng hiện tại440,206
  • Tổng lượt truy cập28,787,609
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây