MỘT SỐ TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
BBT
2025-12-21T04:55:13-05:00
2025-12-21T04:55:13-05:00
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/de-cuong-tuyen-truyen/mot-so-tinh-huong-phap-luat-ve-hon-nhan-va-gia-dinh-650.html
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/uploads/tai-lieu-tuyen-truyen/2025_12/bia-hngd.jpg
Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên - Cổng thông tin điện tử Phổ biến giáo dục pháp luật
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/uploads/botuphap.png
1. Tình huống số 1: Thảo năm nay 15 tuổi, đang học lớp 9 tại trường THCS xã X. Dù rất muốn đi học tiếp nhưng bố mẹ đã bắt cô bé nghỉ học để lấy chồng. Người mà bố mẹ muốn Thảo lấy làm chồng là Bình, năm nay 19 tuổi là người xã bên. Mặc kệ sự phản đối, khóc lóc của Thảo, bố mẹ cô vẫn không thay đổi ý định. Một thời gian ngắn sau, gia đình hai bên đã tổ chức đám cưới linh đình mời anh em, họ hàng đến ăn cỗ. Việc gia đình hai bên tổ chức đám cưới cho Thảo và Bình có vi phạm pháp luật không, hình thức xử phạt như thế nào?
Trả lời:
Việc gia đình hai bên tổ chức đám cưới cho Thảo và Bình đã vi phạm quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình vì:
- Khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“8. Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật này”.
- Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này”.
- Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi”.
Do vậy, việc Thảo và Bình kết hôn mà chưa đủ tuổi (tảo hôn) và không có sự tình nguyện của A (do bị bố mẹ ép buộc) là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
Việc gia đình tổ chức đám cưới cho Thảo và Bình khi cả hai chưa đủ tuổi sẽ bị phạt tiền theo quy định tại Điều 58 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/07/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã:
“1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án”.
2. Tình huống số 2: Gia đình ông Xuân có 4 người con (3 gái 1 trai), người con gái cả đã lấy chồng năm 14 tuổi. Việc gia đình ông tổ chức đám cưới cho con khi chưa đủ tuổi kết hôn đã bị cơ quan chức năng phạt số tiền 2.000.000 đồng theo quy định tại Điều 58 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/07/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Năm nay, ông lại tổ chức đám cưới cho con gái thứ hai (16 tuổi). Hành vi của ông Xuân lần này có bị xử lý nữa hay không? Nếu có sẽ bị xử lý như thế nào theo quy định của pháp luật?
Trả lời:
Hành vi của ông Xuân lần này cũng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 183 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội tổ chức tảo hôn như sau:
“Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.”
Trước đó gia đình ông Xuân đã bị phạt số tiền 2.000.000 đồng theo quy định tại Điều 58 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/07/2020 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Do vậy, lần này hành vi của ông Xuân có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm.
3. Tình huống số 3: Chị Giang sinh sống tại xã Y tỉnh Z, chị vừa kết hôn với anh Tuân. Gia đình chị không theo đạo nhưng sau khi kết hôn với anh Tuân thì chồng và cả gia đình chồng ép chị phải theo đạo thiên chúa. Gia đình anh Tuân lập luận rằng “đã lấy chồng thì phải theo chồng” để ép chị Giang tham gia. Tuy nhiên, chị Giang không đồng ý, mâu thuẫn trong gia đình phát sinh. Hỏi, việc ép buộc vợ theo đạo như trên có phù hợp không?
Trả lời:
- Điều 24 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định như sau:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
- Điều 22 Luật hôn nhân và gia đình quy định về tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng như sau:
“Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau”.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, chị Giang có quyền tự do quyết định việc mình có theo đạo nhà chồng hay không. Việc chồng và cả gia đình chồng ép buộc chị phải theo đạo thiên chúa là trái với quy định của pháp luật.
4. Tình huống số 4: Gia đình bà Coi sinh sống tại xã A, tỉnh B. Nơi đây tập trung đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là đồng bào dân tộc Mông (chiếm hơn 80%). Con trai cả của bà năm nay tròn 20 tuổi, bà đang có ý định cưới vợ cho con. Tuy nhiên, vì lý do để gìn giữ tài sản, bà không muốn con trai cưới một người con gái xa lạ mà có ý cưới cháu gái ruột (con gái của em trai) cho con. Dù đa phần mọi người đều không đồng ý nhưng bà vẫn không thay đổi ý định. Vậy việc bà Coi muốn cưới cháu gái ruột cho con trai có phù hợp không?
Trả lời:
Việc bà Coi định cưới cháu gái ruột cho con trai là không phù hợp và vi phạm quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:
- Khoản 18 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“18. Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba.”
- Điểm d khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về các hành vi bị nghiêm cấm:
“d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”;
Trường hợp này bà Coi định cưới cháu gái ruột cho con trai, tuy nhiên cháu gái ruột của bà và con trai bà là những người cùng dòng máu về trực hệ, là hành vi bị nghiêm cấm. ưDo vậy, việc con trai và cháu gái bà cưới nhau sẽ vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Hành vi vi phạm nêu trên có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 59 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã:
“2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc giữa những người có họ trong phạm vi ba đời”.
5. Tình huống số 5: Anh An và chị Bình kết hôn với nhau được 5 năm, anh chị có với nhau một người con. Tuy nhiên, mấy năm gần đây, hai anh chị xuất hiện nhiều mâu thuẫn ngày càng nghiêm trọng, không thể hàn gắn. Do vậy, vợ chồng anh An và chị Bình đã nộp đơn ly hôn ra Toà án để giải quyết. Sau khi ly hôn, chị Bình sẽ nuôi con, vậy anh An có phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con hay không?
Trả lời:
Sau khi hai anh chị ly hôn và chị Bình nuôi con, anh An sẽ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con mình. Cụ thể như sau:
- Khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
" Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan."
- Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình quy định nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:
" 1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”
Do đó, sau khi anh chị ly hôn, dù cháu bé ở với chị Bình, anh An vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
6. Tình huống số 6: Q là cô gái 25 tuổi, đang làm việc tại một cửa hàng thời trang. Q có quan hệ yêu đương với N là quản lý cửa hàng. Cả hai đã yêu đương được hơn 5 tháng nay, sống chung như vợ chồng, gần đây Q phát hiện N là người đã có gia đình, vợ của N là chị P. Thay vì chấm dứt mối quan hệ, Q đã thúc giục N chia tay vợ để đến với mình. N không đồng ý, thấy không thuyết phục được N, Q chuyển hướng sang chị P bằng cách nhắn tin cho chị biết về mối quan hệ của mình với chồng chị và hẹn gặp chị, nói những lời nói kích động, yêu cầu chị ly hôn. Quá sốc trước thông tin chồng ngoại tình, chị P đã uống thuốc ngủ tự tử. Hỏi hành vi của Q có bị xử lý không?
Trả lời:
Hành vi của Q sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:
- Điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình quy định hành vi bị nghiêm cấm:
“c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”;
Hành vi sống chung như vợ chồng của anh N và Q thuộc trường hợp pháp luật nghiêm cấm.
- Điều 182 Bộ luật Hình sự quy định tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng:
“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó”.
Hành vi của Q đã khiến chị P uống thuốc ngủ tự sát. Do vậy, Q sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 2 Điều 182 Bộ luật Hình sự bằng hình thức: phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
7. Tình huống số 7: Anh T và chị H kết hôn với nhau được 10 năm, có một con trai tên M năm nay 12 tuổi. Do nhiều mâu thuẫn trong cuộc sống không thể hoá giải, chị H đã nộp đơn ly hôn. Sau khi ly hôn, anh T nuôi con, cháu M sống cùng bố. Kể từ khi ly hôn, tính tình anh thay đổi hẳn, thường xuyên say xỉn và mắng mỏ, trút giận lên cháu M. Dạo gần đây, không chỉ mắng con mà những lúc bực tức T thường lôi con ra hành hạ, đánh vào mặt, vùng lưng và chân tay của cháu M khiến cơ thể cháu thường xuyên bị bầm tím. Hành vi của T có bị xử lý hình sự hay không? Nếu có sẽ bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
- Hành vi của T là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý hình sự.
- Điều 185 Bộ luật Hình sự quy định về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình như sau:
“1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;
b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo”.
Trường hợp này, cháu M là con của T mới 12 tuổi, do vậy hành vi của T sẽ bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 185 Bộ luật Hình sự.
8. Tình huống số 8: Anh Tân và chị Loan kết hôn với nhau và có 02 người con. Do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, anh quyết định theo bạn bè vào miền Trung lên tàu đi biển đánh bắt cá. Tàu gặp nạn, gia đình không liên lạc được với anh, đội cứu nạn cứu hộ cũng không tìm được, mọi người trong gia đình đều nghĩ rằng anh và mọi người trên tàu đã chết. Một thời gian dài sau, chị Loan quen biết với anh Văn, hai người nảy sinh tình cảm. Chị yêu cầu Tòa án tuyên bố anh Tân đã chết và yêu cầu ly hôn, sau đó đăng ký kết hôn với anh Văn. Một ngày, anh Tân bỗng quay trở về, rất tức giận về việc chị Loan kết hôn với người đàn ông khác. Anh muốn yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố ông đã chết và xác lập lại quan hệ hôn nhân với chị Loan. Trong trường hợp này, có xác lập lại quan hệ hôn nhân được không?
Trả lời:
- Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình quy định quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về như sau:
“1. Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp có quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại khoản 2 Điều 56 của Luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.
2. Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:
a) Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;
b) Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn”.
Theo đó, trường hợp Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố anh Tân đã chết mà vợ anh là chị Loan chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân sẽ được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp này, do chị Loan đã đăng ký kết hôn với người khác (anh Văn) nên quan hệ hôn nhân được xác lập sau (quan hệ hôn nhân giữa anh Văn và chị Loan) sẽ có hiệu lực pháp luật.
Do vậy, không thể xác lập lại quan hệ hôn nhân giữa anh Tân với chị Loan.
9. Tình huống số 9: Anh Hà và chị Nhung quen nhau từ khi còn đi học, anh chị đã kết hôn với nhau được 05 năm và có 01 bé trai, 01 bé gái. Sau khoảng thời gian cố gắng chăm chỉ làm ăn, anh chị đã xây được ngôi nhà khang trang và mua được một mảnh đất tại trung tâm xã với diện tích đất hơn 300m2. Một thời gian sau, anh làm ăn thua lỗ, nợ một số tiền lớn. Nhằm mục đích trốn tránh việc trả nợ, sau khi suy nghĩ, anh Hà đã quyết định chia tài sản chung với chị Nhung. Vậy việc chia tài sản chung của anh chị có được pháp luật cho phép không?
Trả lời:
- Tại Điều 42 Luật Hôn nhân và gia đình có quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu như sau:
“Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;
b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;
c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;
d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;
đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;
e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Trong trường hợp này, anh Hà chia tài sản chung với chị Nhung nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho các chủ nợ. Do vậy, căn cứ vào quy định tại điểm d khoản 2 Điều 42 nêu trên, trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm trốn tránh việc trả nợ của anh Hà bị vô hiệu.
10. Tình huống số 10: Vợ chồng anh Hải, chị Thương đã kết hôn được 15 năm. Sau một khoảng thời gian dài chăm chỉ cần cù lao động, anh chị đã tiết kiệm được tài sản chung là khoản tiền 1 tỷ đồng, đem đi gửi tiết kiệm tại ngân hàng, mang tên chị Thương. Một hôm, sau khi đi gặp bạn cấp ba về, chị Thương bàn với chồng sẽ góp vốn để kinh doanh chung với bạn bằng cách rút tiền từ sổ tiết kiệm ra. Tuy nhiên, anh Hải không đồng ý vì cho rằng chị Thương không hiểu về kinh doanh nên rất mạo hiểm và muốn để dành tiền để cuối năm xây nhà mới. Mặc kệ chồng không đồng ý, chị Thương vẫn quyết định rút tiền tiết kiệm để góp vốn kinh doanh. Hỏi chị Thương tự ý rút tiền tiết kiệm như vậy có đúng không?
Trả lời:
Hành vi chị Thương tự ý rút tiền tiết kiệm mà không có sự đồng ý của anh Hải là sai.
- Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình quy định bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng như sau:
“Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan”.
- Khoản 1 Điều 29 Luật Hôn nhân và gia đình quy định nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng:
“1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập”.
- Khoản 1 Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“1. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận”.
Từ các quy định trên, có thể thấy rằng anh Hải và chị Thương bình đẳng với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình. Do vậy, chị Thương không được tự ý dùng số tiền tiết kiệm chung của hai vợ chồng để đầu tư kinh doanh, trường hợp muốn sử dụng phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng.