Bình luận vướng mắc trong việc lập biên bản vi phạm hành chính (Kỳ 1)
Lê Công Huấn - Phòng PBGDPL&TDTHPL
2025-03-03T05:53:56-05:00
2025-03-03T05:53:56-05:00
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/huong-dan-nghiep-vu/binh-luan-vuong-mac-trong-viec-lap-bien-ban-vi-pham-hanh-chinh-ky-1-535.html
/themes/netegov/images/no_image.gif
Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên - Cổng thông tin điện tử Phổ biến giáo dục pháp luật
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/uploads/botuphap.png
Biên bản vi phạm hành chính là cơ sở pháp lý quan trọng để người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Lập biên bản vi phạm hành chính là một thủ tục trong quy trình xử phạt vi phạm hành chính, là căn cứ ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính, theo quy định tại Khoản 4 Điều 6 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành (sau đây gọi là Nghị định 118/2021/NĐ-CP) chính gồm người có thẩm quyền xử phạt, công chức, viên chức và người thuộc lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang thi hành công vụ, nhiệm vụ; người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu và những người được chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu giao nhiệm vụ lập biên bản.
Các chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính được quy định cụ thể tại các nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, qua thực tế có những vướng mắc mà quy định, hướng dẫn chưa rõ ràng dẫn đến cán bộ, công chức khó khăn trong quá trình kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm hành chính.
Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định: “Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ, nhiệm vụ khi phát hiện vi phạm hành chính phải lập biên bản vi phạm hành chính.
Đối với hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính hoặc không thuộc lĩnh vực, địa bàn quản lý của mình, thì người có thẩm quyền đang thi hành công vụ, nhiệm vụ phải lập biên bản làm việc để ghi nhận sự việc và chuyển ngay biên bản đến người có thẩm quyền;”.
Khoản 3 Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định:
“…3. Lập biên bản vi phạm hành chính trong một số trường hợp cụ thể:
a) Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị lập một biên bản và ra quyết định xử phạt một lần. Trường hợp hành vi vi phạm đã bị lập biên bản nhưng chưa ra quyết định xử phạt mà cá nhân, tổ chức không thực hiện yêu cầu, mệnh lệnh của người có thẩm quyền, vẫn cố ý thực hiện hành vi vi phạm đó, thì người có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính phù hợp để chấm dứt hành vi vi phạm. Khi ra quyết định xử phạt đối với hành vi đó, người có thẩm quyền xử phạt có thể áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính hoặc xử phạt đối với hành vi không thực hiện yêu cầu, mệnh lệnh của người có thẩm quyền trong trường hợp nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước tương ứng có quy định và xử phạt đối với hành vi vi phạm đã lập biên bản nhưng chưa ra quyết định xử phạt;
b) Trường hợp một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm, thì người có thẩm quyền lập một biên bản vi phạm hành chính, trong đó ghi rõ từng hành vi vi phạm;
c) Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính trong cùng một vụ vi phạm, thì người có thẩm quyền có thể lập một hoặc nhiều biên bản vi phạm hành chính đối với từng cá nhân, tổ chức vi phạm. Trường hợp giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính khác nhau, thì người có thẩm quyền phải ghi rõ giá trị tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của từng cá nhân, tổ chức vi phạm;
d) Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm, thì người có thẩm quyền có thể lập một hoặc nhiều biên bản vi phạm hành chính, trong đó ghi rõ từng hành vi vi phạm của từng cá nhân, tổ chức;
đ) Trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhiều lần, thì người có thẩm quyền lập một biên bản vi phạm hành chính, trong đó ghi rõ từng hành vi vi phạm và từng lần vi phạm…”
Trong thực tế diễn ra khi đoàn kiểm tra liên ngành thực thi nhiệm vụ. Thành phần bao gồm các công chức, viên chức thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau. Khi phát hiện vụ việc có nhiều hành vi vi phạm thuộc nhiều lĩnh vực mà thành viên đoàn kiểm tra chỉ có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực của mình. Tuy nhiên, điểm b Khoản 3 Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định: “b) Trường hợp một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm, thì người có thẩm quyền lập một biên bản vi phạm hành chính, trong đó ghi rõ từng hành vi vi phạm;”.
Trường hợp này, do vụ việc có nhiều hành vi thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nên không có công chức, viên chức nào đủ thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với tất cả các hành vi mà chỉ có thẩm quyền lập biên bản đối với hành vi vi phạm thuộc lĩnh vực của mình. Trên thực tế xử lý trường hợp này so với quy định của pháp luật về thủ tục xử lý vi phạm hành chính có những bất cập cần tháo gỡ.
Phương án 1: Lập biên bản làm việc để ghi nhận sự việc và chuyển ngay biên bản đến người có thẩm quyền xử phạt đồng thời là người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với toàn bộ vụ việc.
Phương án này phù hợp với quy định về nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghi định số 118/2021/NĐ-CP.
Nếu hình thức, mức xử phạt, trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với một trong các hành vi vượt quá thẩm quyền. Do đó, các đoàn kiểm tra liên ngành trong quá trình thực thi công vụ đã lập biên bản làm việc và chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Khi đó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là người lập biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt. Việc vừa tiếp tục kiểm tra theo kế hoạch và đồng thời phải tham mưu việc xử lý vi phạm hành chính kịp thời, đảm bảo đúng thời hạn theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh là rất khó khăn. Nhiều trường hợp lại phải tiến hành xác minh tình tiết của vụ vi phạm trước khi trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ký quyết định xử phạt.
Phương án 2: Mỗi người lập một biên bản vi phạm hành chính đối với từng hành vi mà mình có thẩm quyền và cùng chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt để ra quyết định xử phạt.
Phương án này có thể lập biên bản vi phạm hành chính ngay, từng thành viên đoàn kiểm tra có chuyên môn, hiểu rõ lĩnh vực chuyên ngành đối với các hành vi riêng lẻ trong vụ việc. Có thể trình người có thẩm quyền ra quyết định xử phạt được ngay, tránh vi phạm về thời hạn lập biên bản và ra quyết định xử phạt.
Tuy nhiên tại điểm b Khoản 3 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP quy định:
“b) Trường hợp một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm, thì người có thẩm quyền lập một biên bản vi phạm hành chính, trong đó ghi rõ từng hành vi vi phạm;”. Do đó, phương án vẫn vi phạm quy định này.
Phương án 3: Cùng nhau lập một biên bản vi phạm hành chính đối với toàn bộ vụ việc, trong đó ghi rõ thẩm quyền lập biên bản của từng người đối với từng hành vi vi phạm. Sau đó chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt.
Người viết ủng hộ việc thực hiện theo phương án 3.
Việc lập biên bản vi phạm hành chính theo phương án này đảm bảo tính chuyên môn sâu của từng lĩnh vực, đồng thời đảm bảo thời hạn về việc lập biên bản vi phạm hành chính. Bên cạnh đó, có thể giao cho Trưởng đoàn kiểm tra báo cáo và trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp này là phù hợp.
Hiện nay, theo quy định tại Nghị định số 118/2021/NĐ-CP và các biểu mẫu kèm theo cũng không quy định và hướng dẫn rõ việc một người hoặc có thể nhiều người có thẩm quyền cùng lập biên bản vi phạm hành chính đối với vụ việc có nhiều hành vi vi phạm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Để thực hiện theo phương án này, người viết bài đề nghị cần có căn cứ pháp lý rõ ràng và được nghiên cứu quy định sửa đổi bổ sung Nghị định số 118/2021/NĐ-CP trong thời gian tới. Rất mong nhận được sự trao đổi, đóng góp của các đồng chí, đồng nghiệp.
Tác giả bài viết: Lê Công Huấn - Phòng PBGDPL&TDTHPL