Kết quả thực hiện Đề án nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2017 - 2020

Thứ hai - 24/05/2021 04:27 2.991 0
Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách có vai trò quan trọng, quyết định đến hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền các cấp. Với sự quan tâm của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, trong những năm qua công tác xây dựng, cải cách thể chế đã được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng, đã thể chế hoá kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp và pháp luật nhằm phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
BCDTP4
Hội nghị tổng kết Đề án nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2017 - 2020
Nguồn ảnh: thainguyen.gov.vn
Tuy nhiên, trước yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong tình hình mới, đặc biệt là sau khi tỉnh Thái Nguyên tổ chức tổng kết 10 năm tổ chức thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, cũng như từ thực tiễn công tác xây dựng văn bản QPPL trên địa bàn tỉnh đã đặt ra một số vấn đề cần có giải pháp khắc phục, đó là:
- Nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật có nơi, có lúc chưa đầy đủ, còn hạn chế. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật chưa kịp thời, sát sao;
- Chất lượng dự thảo văn bản, chất lượng cũng như tính ổn định của một số văn bản QPPL còn chưa cao; hệ thống văn bản QPPL còn chậm được rà soát để lược bỏ nội dung không còn phù hợp;
- Yêu cầu về nắm vững khái niệm, đặc điểm của văn bản QPPL đặt ra là vấn đề cấp thiết; việc xác định chưa rõ ràng khái niệm văn bản QPPL, chưa nhận diện rõ những đặc điểm, tính chất của loại văn bản này khiến cho chất lượng ban hành văn bản chưa cao, đặc biệt là ở chính quyền cấp huyện và cấp xã (nhiều văn bản được ban hành bằng hình thức văn bản QPPL nhưng không chứa QPPL; hoặc ngược lại, ban hành văn bản hành chính có chứa QPPL);
- Một số nghiệp vụ cơ bản trong công tác xây dựng văn bản QPPL còn lúng túng, thực hiện thiếu đồng bộ, chưa hiệu quả, chất lượng chưa cao như công tác xây dựng dự thảo văn bản và thực hiện quy trình ban hành văn bản, công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản;
- Chấp hành quy trình xây dựng văn bản QPPL chưa nghiêm túc, việc lấy ý kiến các đối tượng chịu sự tác động của văn bản còn hình thức, còn có văn bản QPPL không qua thủ tục thẩm định của cơ quan tư pháp hoặc có thẩm định nhưng cơ quan soạn thảo không tiếp thu hoặc tiếp thu không đầy đủ để chỉnh sửa, nhưng vẫn được ban hành;
- Hệ thống văn bản QPPL cấp huyện, cấp xã ban hành với số lượng khá lớn tuy nhiên thiếu kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa thường xuyên, cùng với hoạt động lưu trữ văn bản còn chưa khoa học, dẫn tới hệ thống văn bản pháp luật còn cồng kềnh, nhiều văn bản không còn phù hợp nhưng chưa được xử lý kịp thời;
- Việc kiện toàn các thiết chế xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật còn có những khó khăn nhất định, khó đáp ứng toàn diện công tác xây dựng thể chế, chính sách.
Các vấn đề trên là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng hệ thống văn bản QPPL của tỉnh chưa cao, chưa đồng đều giữa các lĩnh vực, các cấp ban hành, vẫn còn phát hiện nhiều văn bản sai sót như về thể thức, kỹ thuật trình bày; còn có văn bản nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật, ban hành trái thẩm quyền...
Ngày 01/7/2016, Luật Ban hành văn bản QPPL có hiệu lực (thay thế Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND năm 2004) đã đặt ra yêu cầu phải đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản QPPL, đáp ứng yêu cầu xây dựng pháp luật trong tình hình mới.
Mục tiêu của Đề án
Đề án được phê duyệt và thực hiện từ giữa năm 2017, đây là năm bản lề toàn tỉnh quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2015 - 2020 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2016 - 2020.
Mục tiêu tổng quát của Đề án là: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản QPPL của tỉnh Thái Nguyên đảm bảo đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tiếp cận, thực hiện nghiêm túc và đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật phù hợp với thẩm quyền và tình hình cụ thể tại địa phương; phát huy vai trò và hiệu lực của hệ thống văn bản được ban hành theo thẩm quyền để góp phần huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; phát triển kinh tế nhanh và bền vững, xây dựng Thái Nguyên sớm trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, trung tâm cùng Trung du và miền núi phía Bắc về phát triển công nghiệp, dịch vụ, y tế và giáo dục - đào tạo.
Mục tiêu cụ thể của Đề án tập trung vào các nội dung:
- Hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng và ban hành văn bản QPPL của tỉnh Thái Nguyên;
- Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác xây dựng văn bản QPPL; quan tâm kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp, pháp chế;
- Nâng cao chất lượng công tác xây dựng văn bản QPPL;
- Hoàn thiện cơ sở dữ liệu pháp luật của tỉnh;
- Tăng cường cơ sở vật chất, cơ chế chính sách đối với người làm công tác xây dựng văn bản QPPL;
- Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật do chính quyền địa phương ban hành.
Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện Đề án
Đề án được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh, từ giai đoạn xây dựng dự thảo đã được Ban Chỉ đạo đặt là nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp nhằm góp phần thực hiện thành công Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 01-KL/TW ngày 04/04/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Để triển khai thực hiện hiệu quả đề án, UBND tỉnh giao cho Sở Tư pháp là cơ quan thường trực, xây dựng Kế hoạch cụ thể để thực hiện đề án theo từng giai đoạn. Nhìn chung công tác chỉ đạo thực hiện đề án được thực hiện thống nhất, xuyên suốt từ tỉnh đến cơ sở. Hằng năm, trên cơ sở tiến độ thực hiện các nhiệm vụ của đề án, Sở Tư pháp tham mưu cho UBND tỉnh cụ thể hóa vào Kế hoạch công tác ngành Tư pháp và Kế hoạch công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa của năm, là cơ sở để các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã xây dựng Kế hoạch cụ thể để thực hiện thống nhất.
Là cơ quan chủ trì thực hiện các nội dung chính của đề án, Sở Tư pháp đã chủ động phối hợp với các đơn vị, địa phương đồng thời thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, thực hiện chế độ thông tin giữa Sở Tư pháp và các cơ quan, đơn vị liên quan; định kỳ đánh giá kết quả, tác động của đề án đối với việc tăng cường năng lực, hiệu quả của công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL do các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương ban hành (thể hiện trong báo cáo công tác tư pháp và báo cáo công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa hằng năm của UBND tỉnh).
 Kết quả xây dựng, hoàn thiện thể chế đảm bảo cho công tác xây dựng văn bản QPPL
Trong giai đoạn thực hiện đề án HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản QPPL thuộc thẩm quyền nhằm nâng cao chất lượng công tác tham mưu, xây dựng thể chế, chính sách, văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp trên địa bàn tỉnh, đảm bảo phù hợp với Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, cụ thể như:
- Nghị quyết số 08/2017/NQ-HĐND ngày 21/7/2017 của HĐND tỉnh quy định mức trích từ các khoản thu hồi phát hiện qua công tác thanh tra đã thực nộp vào ngân sách nhà nước; mức phân bổ kinh phí đảm bảo cho công tác xây dựng văn bản QPPL; nội dung, mức chi cho công tác quản lý nhà nước về thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính; bổ sung mức thu lệ phí đăng ký cư trú trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
- Quyết định số 59/2016/QĐ-UBND ngày 23/12/2016 của UBND tỉnh ban hành Quy định về xây dựng và ban hành văn bản quy QPPL của HĐND, UBND các cấp tỉnh Thái Nguyên;
- Quyết định 19/2017/QĐ-UBND ngày 21/7/2017 của UBND tỉnh ban hành Quy định về việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản QPPL của HĐND và UBND các cấp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
- Chỉ thị số 16/CT-UBND ngày  6/9/2017 của Chủ tịch của UBND tỉnh về tăng cường công tác tham mưu xây dựng và ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp tỉnh Thái Nguyên
Đồng thời rà soát, bãi bỏ một số văn bản không còn phù hợp với Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 như:
- Quyết định số 34/2010/QĐ-UBND ngày 25/10/2010 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy chế rà soát, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL thuộc thẩm quyền.
- Quyết định số 36/2010/QĐ-UBND ngày 22/11/2010 của UBND tỉnh về việc đính chính văn bản QPPL (đính chính Quyết định số 34/2010/QĐ-UBND).
- Quyết định số 22/2011/QÐ-UBND ngày 26/5/2011 của UBND tỉnh về việc ban hành Quy chế thẩm định dự thảo văn bản QPPL trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Kết quả khảo sát, đánh giá đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng chính sách, pháp luật; đánh giá thực trạng hệ thống văn bản QPPL ở các cấp
Đề án được ban hành sau thời điểm Bộ Chính trị chỉ đạo các địa phương thực hiện tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” cùng với việc tổ chức thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản QPPL. Vì vậy hoạt động khảo sát là rất cần thiết nhằm đánh giá khách quan nhận thức, hiểu biết về văn bản QPPL, đánh giá về chất lượng hệ thống văn bản QPPL; xác định những mặt tích cực, những mặt tồn tại, bất cập trong công tác xây dựng, ban hành và thực thi văn bản QPPL tđó đưa ra những giải pháp phù hợp để tham mưu giúp HĐND, UBND các cấp tiếp tục nâng cao chất lượng hệ thống văn bản QPPL.
Hoạt động khảo sát được tiến hành với hai (02) nhóm đối tượng là công chức nhà nước và người dân. Tổng số phiếu khảo sát là 3000 phiếu, tương ứng với 3000 người được khảo sát, trong đó nhóm đối tượng công chức là 500 phiếu; nhóm đối tượng người dân 2500 phiếu.
Kết quả khảo sát cho thấy một số nội dung đáng chú ý như: Có 15% số công chức được hỏi thấy khó khăn trong việc xác định QPPL trong dự thảo văn bản được tham gia góp ý hoặc nghiên cứu, đa số người có ý kiến này đề nghị cần có tham vấn của cơ quan tư pháp để làm rõ; có 31% số công chức được khảo sát đánh giá hoạt động kiểm tra, rà soát đã thực hiện nhưng khả năng phát hiện kịp thời các văn bản trái pháp luật còn thấp (nhóm đối tượng là công chức nhà nước). Có tới 37% số người dân được khảo sát không quan tâm đến hoạt động ban hành văn bản QPPL ở địa phương và 14% không nắm rõ văn bản nào là văn bản pháp luật; có tới 95% người dân chưa bao giờ tham gia ý kiến xây dựng các dự thảo văn bản QPPL do HĐND, UBND các cấp ban hành.
Từ kết quả khảo sát, cơ quan quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản QPPL đã tham mưu, đề xuất, đưa ra các giải pháp phù hợp trong triển khai thực hiện đề án nhằm từng bước khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động xây dựng văn bản QPPL ở địa phương.
Kết quả sắp xếp, củng cố đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng chính sách, xây dựng pháp luật
Triển khai thực hiện Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Đề án số 09-ĐA/TU ngày 29/01/2018 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Nguyên thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XII)một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp vị trí việc làm đảm bảo khoa học, tinh gọn, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước cũng như hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật theo chức năng, nhiệm vụ.
Trong bối cảnh toàn tỉnh thực hiện mục tiêu tinh giản tổ chức, bộ máy, biên chế các cơ quan nhà nước, tuy nhiên các cấp, các ngành đã quan tâm củng cố, kiện toàn, nâng cao về năng lực các thiết chế xây dựng và thi hành pháp luật, phù hợp với mục tiêu của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước và điều kiện thực tiễn của địa phương, về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu công tác xây dựng chính sách, xây dựng văn bản QPPL ở các cấp:
- Đội ngũ cán bộ pháp chế được các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh quan tâm kiện toàn, mỗi cơ quan đã bố trí được 01 công chức kiêm nhiệm nhiệm vụ pháp chế, tổng số công chức pháp chế hiện có là 15 người, là nguồn nhân lực giúp tham mưu triển khai thực hiện công tác xây dựng pháp luật, rà soát, hệ thống hóa, theo dõi thi hành văn bản QPPL...
- UBND cấp huyện, cấp xã đã quan tâm kiện toàn đội ngũ công chức Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã. Các Phòng Tư pháp cấp huyện hiện có 34 công chức (tăng so với năm 2017 là 02 người/trung bình mỗi phòng có 3,7 người), toàn tỉnh có 243 công chức tư pháp - hộ tịch (tăng so với năm 2017 là 72 người/trung bình mỗi đơn vị có 1,35 công chức tư pháp - hộ tịch), trong đó trình độ đào tạo chuyên môn luật là: 234, đạt 96,2% (tăng 4,4% so với năm 2017)
- Sở Tư pháp, cơ quan quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản đã kiện toàn, củng cố Phòng Xây dựng và kiểm tra văn bản QPPL với 05 biên chế (tăng 02 biên chế so với năm 2017), cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác thẩm định, kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL.
- Đội ngũ cộng tác viên kiểm tra, rà soát văn bản QPPL được quan tâm xây dựng và hoạt động hiệu quả (hằng năm Sở Tư pháp duy trì cộng tác từ 5 đến 7 cộng tác viên), góp phần nâng cao chất lượng và đảm bảo tính kịp thời cho công tác kiểm tra, rà soát văn bản QPPL trong điều kiện lực lượng chuyên trách còn tương đối “mỏng”, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
Hoạt động tập huấn, đào tạo chuyên sâu về công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát văn bản QPPL
Nâng cao năng lực xây dựng thể chế, chính sách pháp luật có vai trò quyết định đến việc nâng cao chất lượng xây dựng văn bản QPPL. Để giúp các cơ quan, người làm công tác xây dựng chính sách, xây dựng văn bản QPPL của các cấp chính quyền tỉnh nâng cao nghiệp vụ, kiến thức và hiệu quả công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, xử lý, hệ thống hóa văn bản QPPL, Sở Tư pháp đã biên soạn cuốn “Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật”, phát hành 1200 cuốn, cấp phát cho các cơ quan cấp tỉnh, cấp huyện, HĐND, UBND và công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã.
Chỉ đạo Sở Tư pháp tổ chức bốn (04) hội nghị bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu với thời lượng hai (02) ngày/hội nghị, thành phần là đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng chính sách, đặc biệt là đội ngũ công chức pháp chế của các sở, ngành cấp tỉnh, công chức các phòng chuyên môn thuộc UBND cấp huyện và công chức tư pháp hộ tịch cấp xã với trên 800 lượt người tham dự. Nội dung hội nghị chủ yếu tập trung vào nghiệp vụ cụ thể trong công tác xây dựng văn bản như việc xác định, làm rõ nội hàm của QPPL, kỹ năng soạn thảo, kỹ năng thẩm định dự thảo, kỹ thuật trình bày văn bản; nghiệp vụ kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL và đặc biệt là kỹ năng lập đề nghị ban hành chính sách trong các dự thảo văn bản QPPL. Song song với các hội nghị chuyên đề theo chương trình của đề án, ngành Tư pháp còn tổ chức nhiều hội nghị hoặc phối hợp với UBND cấp huyện tổ chức các hội nghị tại các địa phương trong đó có các chuyên đề về công tác xây dựng văn bản QPPL (trung bình mỗi năm tổ chức từ 02 đến 04 hội nghị). Hoạt động tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ đã giải quyết cơ bản các vấn đề vướng mắc, hạn chế trong công tác xây dựng văn bản thông qua việc nâng cao khả năng, kỹ năng tham mưu xây dựng văn bản của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp.
Kết quả nâng cao chất lượng dự thảo văn bản và chấp hành quy trình xây dựng văn bản QPPL
a) Về chấp hành quy trình xây dựng văn bản
Việc chấp hành quy trình ban hành văn bản đảm bảo cho văn bản QPPL được ban hành có chất lượng, khả thi, phát huy hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh. Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015 đã có nhiều thay đổi về quy trình xây dựng văn bản QPPL ở địa phương, với sự chỉ đạo quyết liệt của Thường trực HĐND, UBND tỉnh và hướng dẫn của ngành Tư pháp, quy trình xây dựng văn bản QPPL đã được “chuẩn hóatừ bước lập đề nghị, soạn thảo, lấy ý kiến vào dự thảo, đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật, thẩm định, thẩm tra, trình cấp có thẩm quyền ban hành được thực hiện nghiêm túc theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL.
Thủ tục lập đề nghị xây dựng nghị quyết, đề nghị xây dựng quyết định, bước đầu tiên trong chuỗi các hoạt động xây dựng văn bản QPPL được các cơ quan chủ trì soạn thảo thực hiện nghiêm túc, làm rõ được căn cứ, sự cần thiết xây dựng văn bản QPPL, đưa hoạt động xây dựng văn bản dần đi vào nề nếp.
Quy trình đánh giá tác động của chính sách (đối với nghị quyết có chứa chính sách) tuy là nhiệm vụ mới, khó, qua nhiều bước thực hiện, nhưng đã từng bước được cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá tương đối đầy đủ, được Sở Tư pháp thẩm định, đảm bảo xây dựng chính sách phù pháp luật và yêu cầu, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Phương pháp, thời gian lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động của văn bản ngày càng được quan tâm đổi mới và dần thực chất hơn, đảm bảo sự tham gia rộng rãi, đầy đủ của các cơ quan, đơn vị, công dân chịu sự tác động của văn bản, đồng thời công khai, minh bạch hoạt động xây dựng văn bản QPPL của chính quyền các cấp.
Công tác thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản QPPL được cơ quan tư pháp và các Ban của HĐND thực hiện nghiêm túc, đảm bảo chất lượng. Không còn tình trạng văn bản QPPL được ban hành nhưng chưa có báo cáo thẩm định, thẩm tra đối với dự thảo. Quy trình HĐND, UBND tỉnh thông qua dự thảo và ban hành văn bản được thực hiện chặt chẽ, đảm bảo theo yêu cầu của Luật Ban hành văn bản QPPL.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã tích cực tham gia vào quá trình xây dựng các văn bản QPPL ở địa phương, đặc biệt là tham gia phản biện xã hội đối với các dự thảo văn bản QPPL và giám sát việc thi hành pháp luật theo Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
b) Về chất lượng dự thảo văn bản
Từ kết quả thực hiện tốt công tác kiện toàn, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực phân tích, xây dựng chính sách pháp luật, năng lực, kỹ năng soạn thảo văn bản QPPL của cán bộ công chức ngày càng được nâng lên, cùng với việc chấp hành tốt quy trình lấy ý kiến, đánh giá tác động của văn bản, sự quan tâm khảo sát, đánh giá thực trạng, thu thập và xử lý thông tin, tư liệu có liên quan đến dự thảo, đã giúp cơ quan soạn thảo xây dựng được nội dung dự thảo văn bản chất lượng; dự thảo văn bản đã thể chế toàn diện các chính sách thuộc thẩm quyền của địa phương, quy định chi tiết và triển khai thi hành đầy đủ văn bản pháp luật của cơ quan cấp trên, đặt lợi ích chung của nhà nước của đối tượng chịu sự tác động của văn bản lên trên lợi ích ngành, lợi ích nhóm; giảm thiểu các sai sót nội dung, thể thức, kỹ thuật trình bày dự thảo; tình trạng sao chép, nhắc lại các quy định trong các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên không còn phổ biến.
Kết quả nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL
Nhận thức được công tác thẩm định dự thảo văn bản QPPL có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng văn bản QPPL, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành tư pháp tập trung thực hiện nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Là giai đoạn “tiền kiểm” của hoạt động xây dựng, thi hành văn bản QPPL nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật; công tác thẩm định được Sở Tư pháp thực hiện đã bảo đảm tính độc lập, khách quan, tuân thủ đúng trình tự, thủ tục quy định, chú trọng các vấn đề về thủ tục hành chính và việc lồng ghép giới trong dự thảo, vừa mang tính tư vấn, vừa có tính phản biện và kiến nghị chỉnh sửa cụ thể, giúp cơ quan soạn thảo nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện văn bản; đối với các dự thảo liên quan đến nhiều lĩnh vực, có nội dung phức tạp, Sở Tư pháp thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định liên ngành để xem xét tổng thể các vấn đề có liên quan trước khi đề xuất người có thẩm quyền quyết định.
Thông qua hoạt động thẩm định đã phát hiện nhiều quy định của dự thảo văn bản không đúng thẩm quyền, nội dung chưa phù hợp, còn mâu thuẫn, chồng chéo với các quy định pháp luật hiện hành hoặc có phạm vi, đối tượng điều chưa phù hợp, từ đó kiến nghị cơ quan soạn thảo tiếp thu, chỉnh lý; đa số ý kiến thẩm định đã được cơ quan soạn thảo tiếp thu để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản. Kết quả thẩm định đã giúp cho HĐND, UBND đánh giá toàn diện và sâu sắc hơn về cả nội dung và hình thức của dự thảo trước khi ký ban hành.
Kết quả hoạt động kiểm tra, rà soát văn bản, đảm bảo hệ thống văn bản QPPL hợp hiến, hợp pháp phát huy được hiệu lực, hiệu quả
Trong giai đoạn thực hiện Đề án, UBND tỉnh đã tăng cường chỉ đạo hoạt động tự kiểm tra, kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL. Các cấp, các ngành có nhận thức rõ ràng hơn, đưa nhiệm vụ kiểm tra, rà soát văn bản là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và ngày càng đi vào chiều sâu, đặc biệt hoạt động kiểm tra theo thẩm quyền và rà soát văn bản theo ngành, lĩnh vực được đẩy mạnh; số lượng, chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL tăng cao so với giai đoạn trước khi thực hiện đề án:
- Cấp tỉnh đã tự kiểm tra được 232 văn bản (100% văn bản QPPL ban hành hằng năm được tự kiểm tra), phát hiện 10 văn bản có nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật, 16 văn bản sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày; cấp huyện đã tự kiểm tra được 225 văn bản, phát hiện 08 văn bản có nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật, 23 văn bản sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày.
- Cấp tỉnh đã kiểm tra theo thẩm quyền 1882 văn bản văn bản do HĐND, UBND cấp huyện ban hành (trong đó có 183 văn bản QPPL), phát hiện 12 văn bản có nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật, 150 văn bản sai sót về thể thức, kỹ thuật trình bày. 
- Sở Tư pháp đã phối hợp cùng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đã thực hiện rà soát 1.434 văn bản QPPL, kiến nghị xử lý 209 văn bản (đã xử lý 100% số văn bản có kiến nghị xử lý). Đặc biệt, trong khuôn khổ hoạt động của đề án, năm 2018 - 2019, Sở Tư pháp đã giúp HĐND, UBND cấp huyện rà soát toàn bộ văn bản QPPL ban hành từ năm 1997 đến nay với trên 1000 văn bản, kết quả đã giúp HĐND, UBND cấp huyện nhận diện được toàn bộ hệ thống văn bản QPPL do mình ban hành với 547 văn bản QPPL, đồng thời loại bỏ khỏi hệ thống văn bản QPPL (đính chính số, ký hiệu hoặc bãi bỏ văn bản) nhiều văn bản không chứa QPPL nhưng có thể thức và ban hành theo trình tự, thủ tục như văn bản QPPL; đây là lần đầu tiên tỉnh Thái Nguyên nhận diện, quản lý được toàn bộ hệ thống văn bản QPPL do các cấp chính quyền ban hành. Thông qua kết quả kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL, từ năm 2017 đến hết năm 2020, tỉnh Thái Nguyên đã công bố 739 văn bản QPPL hết hiệu lực, 63 văn bản hết hiệu lực một phần, đảm bảo tính công khai, minh bạch của hệ thống văn bản pháp luật .
Kết quả hoạt động kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL đã phát hiện nhiều văn bản quy QPPL có nội dung không phù hợp, trái pháp luật, trái thẩm quyền, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, kịp thời xử lý theo quy định, góp phần rất lớn đảm bảo cho hệ thống thể chế của tỉnh được hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Kết quả tổ chức thi hành văn bản pháp luật
            Do làm tốt công tác xây dựng dự thảo văn bản, từ khâu lập đề nghị xây dựng văn bản, đánh giá tác động, đánh giá nguồn lực để thực hiện, đồng thời hoạt động xây dựng và tổ chức thi hành văn bản gắn chặt chẽ với công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, cùng với đó là hệ thống các cơ quan thực thi văn bản pháp luật thường xuyên được củng cố và kiện toàn, có đủ năng lực triển khai toàn diện và đồng bộ các thể chế, chính sách được ban hành. Do đó, trong thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh, về cơ bản các chủ chương, chính sách, thể chế của tỉnh đã được tổ chức thi hành nghiêm túc, kịp thời và hiệu quả, đảm bảo nguyên tắc pháp chế, hạn chế thấp nhất sự chồng chéo, vướng mắc trong quá trình thực hiện và phù hợp với thực tiễn của tỉnh.
Để đảm bảo văn bản pháp luật được thực thi đúng quy định, đạt hiệu quả cao, công tác theo dõi thi hành pháp luật được UBND tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao. Hằng năm, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch công tác theo dõi thi hành pháp luật để triển khai thống nhất trên toàn tỉnh, tổ chức nhiều đoàn kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật tại các đơn vị, địa phương; đồng thời còn tổ chức nhiều hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm liên ngành theo từng chuyên đề cụ thể (trung bình mỗi năm tổ chức 03 đoàn kiểm tra theo chuyên đề); các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, UBND cấp huyện, cấp xã đã chủ động theo dõi thi hành pháp luật thuộc trách nhiệm của ngành, địa phương, kịp thời phát hiện những vấn đề bất cập phát sinh trong thực tiễn thi hành, cũng như tiếp nhận phản hồi, phản biện của xã hội trong quá trình thi hành pháp luật, từ đó có biện pháp, giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước trên các lĩnh vực và nâng cao chất lượng công tác xây dựng, thực thi pháp luật.
Xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu pháp luật
Trong giai đoạn tăng cường “số hóa”, đề án đặt ra mục tiêu số hóa kịp thời, đầy đủ hệ thống văn bản QPPL của tỉnh, nhằm tăng cường chia sẻ, cung cấp chính xác, kịp thời, chính thống các văn bản QPPL trên môi trường mạng Internet, phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước, phổ biến pháp luật, nghiên cứu, tìm hiểu, áp dụng và thi hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Từ năm 2017 đến nay, Sở Tư pháp đã giúp HĐND, UBND tỉnh số hóa trên môi trường mạng 1268 văn bản QPPL (345 văn bản của HĐND và 941 văn bản của UBND) tại địa chỉ trang web http://vbpl.vn (Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật), đồng thời thường xuyên rà soát, cập nhật, đảm bảo văn bản QPPL sau khi được HĐND, UBND tỉnh ban hành đều được số hóa. Có thể coi đây là một trong những đóng góp trong lĩnh vực thể chế tạo tiền đề thực hiện tốt Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày 31/12/2020 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về Chương trình chuyển đối số tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Xây dựng cơ chế hỗ trợ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL
Đảm bảo cơ chế, chính sách hỗ trợ, động viên đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL là một nội dung quan trọng được đề án đề cập tới và được HĐND, UBND quan tâm xây dựng.
Đối với công tác xây dựng văn bản QPPL, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 08/2017/NQ-HĐND ngày 21/7/2017 trong đó có quy định mức phân bổ kinh phí đảm bảo cho công tác xây dựng văn bản QPPL; UBND tỉnh ban hành Quyết định số 19/2017/QĐ-UBND ngày 21/7/2017 ban hành Quy định về việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng văn bản QPPL của HĐND và UBND các cấp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.  
Kinh phí đảm bảo cho công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL được UBND tỉnh đảm bảo theo quy định tại Thông tư 122/2011/TTLT-BTC-BTP và Quyết định số 63/2011/QĐ-UBND ngày 20/12/2011 của UBND tỉnh về việc quy định mức chi đặc thù đảm bảo cho các nội dung kiểm tra, xử lý và rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, về cơ bản đã đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản.
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG, HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ ÁN
Nhận thức của các cấp các ngành về vị trí, vai trò của công tác xây dựng văn bản QPPL ngày càng được nâng cao
Có thể khẳng định kết quả thực hiện đề án đã làm thay đổi rõ nét nhận thức của các cấp, các ngành và của cán bộ công chức đối với hoạt động xây dựng văn bản QPPL. Các cơ quan có chức năng lập đề nghị xây dựng văn bản QPPL đã chủ động hơn, có kế hoạch, lộ trình tham mưu xây dựng văn bản, chuẩn bị chu đáo, đầy đủ hơn về nguồn lực tổ chức thi hành, đồng thời chú trọng công tác tổng kết, đánh giá, rà soát trong quá trình tổ chức thực thi văn bản. Đặc biệt, nhận thức về nội hàm của khái niệm “QPPL” ngày càng rõ ràng hơn; công chức được giao xây dựng dự thảo đã có thể phân định, làm rõ các “QPPL” cần được xây dựng, từ đó tham mưu cho cấp có thẩm quyền xây dựng văn bản theo trình tự ban hành văn bản QPPL; đến thời điểm hiện tại, không còn tình trạng ban hành văn bản hành chính cá biệt có chứa QPPL hoặc ban hành văn bản bằng trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL nhưng nội dung văn bản được ban hành không chứa QPPL. Nhận thức về vị trí, vai trò của văn bản QPPL còn thể hiện ở sự “vào cuộc” của các cơ quan trong hoạt động phối hợp xây dựng văn bản QPPL ngày càng cao; nhiều văn bản được phối hợp xây dựng ngay từ giai đoạn đầu bằng các hình thức hội nghị, hội thảo chuyên đề; nhiều ý kiến phản biện có chất lượng, giúp cho cơ quan soạn thảo phân tích, tiếp thu đa chiều; trách nhiệm của các thành viên UBND trong hoạt động xây dựng, thông qua văn bản QPPL ngày càng được đề cao, các dự thảo văn bản QPPL được thành viên UBND dành thời gian nghiên cứu, cho ý kiến trước khi quyết định thông qua; đồng thời theo dõi quá trình thi hành, thực hiện để đảm bảo văn bản đi vào thực tiễn đời sống xã hội với hiệu quả cao, đồng thuận.
Xây dựng được hệ thống văn bản QPPL đảm bảo chất lượng
Từ năm 2017 đến hết năm 2020, toàn tỉnh đã ban hành được 298 văn bản (cấp tỉnh 232 văn bản, trong đó có 55 Nghị quyết của HĐND; cấp huyện 66 văn bản, trong đó có 19 Nghị quyết của HĐND), cùng với trên 2000 lượt văn bản QPPL được kiểm tra, rà soát đã góp phần xây dựng một hệ thống văn bản QPPL của tỉnh ngày càng hoàn thiện với trên 700 văn bản còn hiệu lực, thể chế hóa đầy đủ và kịp thời các chủ trương, chính sách, đáp ứng theo từng giai đoạn phát triển và các lĩnh vực quản lý, phát triển kinh tế - xã hội:
- Trong lĩnh vực kinh tế: hệ thống văn bản QPPL của tỉnh tập trung vào các lĩnh vực thu hút, khuyến khích đầu tư, xây dựng khu công nghiệp, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển, phân cấp, phân quyền cho các đơn vị, bước đầu tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, nhà đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân, đồng thời góp phần tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đến nay hầu hết các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội như đầu tư, nông nghiệp, nông thôn, giáo dục, y tế... đều có chính sách hỗ trợ, thu hút, tạo điều kiện cho hoạt động đầu tư, nhằm tạo bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội.
- HĐND, UBND tỉnh đã xây dựng nhiều văn bản về phân công, phân cấp quản lý nhằm tạo sự chủ động, linh hoạt cho các cấp chính quyền và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; quy định về cải cách hành chính, sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn của tỉnh theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; ban hành nhiều quy định, chính sách về đào tạo, hỗ trợ cho lao động nông thôn, chính sách về ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống; chính sách hỗ trợ cho giáo viên, học sinh, sinh viên; khám, chữa bệnh cho người nghèo...
- Hệ thống văn bản pháp luật lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại được quan tâm xây dựng, quy định về xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng, về quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, thông tin đối ngoại trên địa bàn tỉnh, quy định về bảo vệ bí mật nhà nước...
Tác động điều chỉnh của hệ thống văn bản QPPL được ban hành là tích cực, hiệu quả trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội
Với sự quyết liệt trong chỉ đạo và cẩn trọng trong công tác xây dựng, đặc biệt các thể chế, chính sách đặc thù của địa phương được đầu tư nghiên cứu trong tổng thể hệ thống pháp luật, đánh giá đầy đủ về thẩm quyền ban hành, tính khả thi, nguồn lực đảm bảo thực hiện, cũng như đánh giá lợi ích của tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước khi văn bản có hiệu lực thi hành, do đó trong thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh, về cơ bản các hệ thống văn bản QPPL của tỉnh đã được tổ chức thi hành nghiêm túc, hiệu quả, đảm bảo nguyên tắc pháp chế và phù hợp với thực tiễn của tỉnh, được tổ chức, công dân đồng tình, ủng hộ và nghiêm chỉnh chấp hành.
Kết quả triển khai thi hành các văn bản ban hành theo thẩm quyền đã góp phần bảo đảm hoạt động chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước được thống nhất thực hiện trên cơ sở pháp luật, tránh sự tùy tiện áp đặt hoặc lỏng lẻo trong quản lý, điều hành. Đặc biệt đã góp phần rất lớn thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2016-2020, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt mức cao, có sự chuyển dịch mạnh về cơ cấu kinh tế; duy trì chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) ở mức cao; tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ổn định; hội nhập kinh tế quốc tế của địa phương ngày càng sâu rộng.
Dưới góc độ cải cách hành chính, các chỉ số và tiêu chí cải cách thể chế của tỉnh luôn được đánh giá cao, góp phần quan trọng trong việc cải thiện thứ hạng cải cách hành chính của tỉnh trong những năm gần đây (qua kết quả chấm điểm các tiêu chí theo quy định của Bộ Nội vụ, nếu như năm 2016 đạt 69,03% xếp thứ 54/63 tỉnh, thành thì các năm tiếp theo thứ hạng đã được nâng lên đáng kể: năm 2017 đạt 78,55% xếp thứ 30/63 tỉnh, thành; năm 2018 đạt 78,78% xếp thứ 18/63 tỉnh, thành và năm 2019 đạt 83,01% xếp thứ 14/63 tỉnh, thành)
TỒN TẠI, HẠN CHẾ
Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, còn những vấn đề cần được khắc phục, rút kinh nghiệm trong công tác triển khai thực hiện đề án nói riêng và trong hoạt động xây dựng văn bản QPPL ở địa phương:
- Một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp chưa thực sự chủ động trong việc đề xuất, xây dựng các cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật thuộc trách nhiệm quản lý của mình. Do đó vẫn còn văn bản chậm được ban hành hoặc chưa được sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ kịp thời;
- Quy trình lập đề nghị và đánh giá tác động của văn bản theo quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL 2015 thực tế có nội dung còn chưa phù hợp với thực tiễn ban hành văn bản QPPL của địa phương; trình tự, thủ tục khá phức tạp dẫn đến việc thực hiện của các cơ quan tham mưu còn lúng túng, chưa đảm bảo. Chất lượng hoạt động đánh giá tác động chính sách trong xây dựng văn bản QPPL chưa thực sự đáp ứng được các mục tiêu, yêu cầu đặt ra;
- Hoạt động kiểm tra, xử lý, rà soát văn bản dù đã được quan tâm thực hiện nhưng ở một số địa phương, đơn vị hiệu quả chưa cao (chủ yếu ở cấp huyện, cấp xã), việc xử lý văn bản sau kiểm tra, rà soát còn chưa kịp thời. Công tác theo dõi thi hành pháp luật chưa thực sự toàn diện, các sở, ngành chủ yếu thực hiện theo lĩnh vực trọng tâm, chuyên đề theo kế hoạch chung của tỉnh mà chưa chủ động thực hiện đầy đủ các hoạt động theo dõi tình hình thi hành pháp luật trên các lĩnh vực quản lý;
- Công tác kiện toàn tổ chức, tăng cường năng lực của các thiết chế xây dựng và thi hành pháp luật còn có những bất cập nhất định: việc bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác xây dựng, rà soát, kiểm tra, theo dõi thi hành văn bản QPPL còn gặp khó khăn trong điều kiện tinh giản biên chế; chưa huy động được đội ngũ chuyên gia, người có kinh nghiệm trong công tác xây dựng pháp luật tham gia cùng chính quyền các cấp trong hoạt động xây dựng văn bản QPPL;
- Là đề án đầu tiên trong lĩnh vực xây dựng văn bản QPPL, do đó công tác tổ chức thực hiện đề án còn có những hạn chế, bất cập: một số sở, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã còn chưa thực sự chủ động triển khai các nội dung của đề án (chủ yếu do Sở Tư pháp chủ động hướng dẫn, chủ trì thực hiện), phần nào ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả thực hiện đề án; công tác tổng hợp, báo cáo định kỳ kết quả thực hiện đề án thực hiện còn chưa đầy đủ, kịp thời.
Bài học kinh nghiệm
- Cần tích cực tham mưu hơn nữa nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và thi hành pháp luật toàn diện trên các lĩnh vực; có tầm nhìn chiến lược, gắn với thực tiễn trong xây dựng văn bản; kịp thời thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước;
- Nhiệm vụ xây dựng và thi hành pháp luật phải là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu; không ngừng phát huy vai trò chủ động tham mưu, đề xuất của các cơ quan, đơn vị có chức năng tham mưu ban hành văn bản QPPL;
- Quan tâm thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để đưa văn bản QPPL vào cuộc sống. Đề cao kỷ luật, kỷ cương trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước; nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động thanh tra công chức, công vụ; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thi hành pháp luật;
- Thường xuyên kiện toàn và củng cố các thiết chế đảm bảo cho xây dựng và thi hành pháp luật. Tăng cường công tác kiểm tra, xử lý, rà soát văn bản QPPL, kịp thời xử lý văn bản không phù hợp, văn bản trái pháp luật nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VĂN BẢN QPPL TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Nâng cao hơn nữa nhận thức về vai trò, trách nhiệm trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của chính quyền các cấp. Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, tạo sức bứt phá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn 2021 - 2025;
2. Tiếp tục nâng cao chất lượng soạn thảo, thẩm định, ban hành văn bản QPPL, đảm bảo tuân thủ trình tự, thủ tục luật định, nhất là công tác lấy ý kiến, đánh giá tác động của chính sách, đánh giá thủ tục hành chính, thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản. Đổi mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát, nhất là kiểm soát trong công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL; nghiên cứu cơ chế huy động sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học và các tầng lớp Nhân dân trong xây dựng và thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh;
3. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn bản QPPL kịp thời phát hiện, kiến nghị, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc thay thế những văn bản có mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tiễn, đảm bảo tính thống nhất, hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi, hiệu quả của hệ thống pháp luật; gắn kết chặt chẽ công tác kiểm tra văn bản với các hoạt động soạn thảo, thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính và theo dõi thi hành pháp luật;
4. Tiếp tục tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật của các cấp, các ngành; gắn kết chặt chẽ công tác theo dõi thi hành pháp luật với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, kịp thời nắm bắt tình hình thi hành chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của các văn bản QPPL để có giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành của hệ thống văn bản pháp luật;
5. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền; sự phối hợp của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Thường xuyên nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; nâng cao văn hóa pháp lý trong Nhân dân, cơ quan, doanh nghiệp; tăng cường năng lực tiếp cận hệ thống pháp luật của Nhân dân;
6. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra việc thực hiện và áp dụng pháp luật; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật. Đổi mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát, nhất là kiểm soát trong công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL;
7. Nâng cao năng lực, vai trò tham mưu của ngành tư pháp trong công tác xây dựng văn bản QPPL và theo dõi thi hành pháp luật. Thường xuyên củng cố tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ tư pháp cấp huyện, cấp xã, đáp ứng yêu cầu xây dựng chính sách pháp luật.
 

Tác giả bài viết: Vũ Thị Lệ Hằng, Giám đốc Sở Tư pháp

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây