Công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2015-2020 và phương hướng, nhiệm vụ giai đoạn 2021-2025 của Sở Tư pháp

Thứ hai - 31/05/2021 22:51 2.866 0
Xác định công tác cải cách tư pháp là một trong những nhiệm vụ quan trọng của của ngành Tư pháp. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh và Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh, Đảng ủy – Lãnh đạo Sở Tư pháp đã quán triệt và đưa công tác cải cách tư pháp là nhiệm vụ chính trị quan trọng, thực hiện xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị của ngành. Hằng năm, căn cứ nội dung Chương trình trọng tâm công tác tư pháp của Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh, Đảng ủy - Lãnh đạo sở đã tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng chương trình, kế hoạch của ngành trong đó các nội dung trọng tâm về cải cách tư pháp trong lĩnh vực thuộc ngành Tư pháp quản lý. Đảng ủy - Lãnh đạo Sở Tư pháp đã quan tâm chỉ đạo triển khai đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm và phối hợp với các cơ quan hữu quan thực hiện các nhiệm vụ công tác tư pháp, giúp UBND tỉnh xây dựng và hoàn thiện thể chế, xây dựng và hoàn thiện các cơ chế bổ trợ tư pháp, hoàn thiện tổ chức, bộ máy của ngành và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Cùng với hoạt động chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp, công tác kiểm tra, đôn đốc cũng được thực hiện thường xuyên; hằng năm Sở đã chỉ đạo Thanh tra Sở và phòng chuyên môn quản lý nhà nước lĩnh vực bổ trợ tư pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động quản lý nhà nước về luật sư, công chứng, thừa phát lại, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trợ giúp pháp lý…; đồng thời thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo định kỳ theo yêu cầu của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh.
Xây dựng Hiến pháp, hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp là nội dung lớn của Nghị quyết số 49-NQ/TW. Sau khi nghị quyết ban hành, nhiều dự án luật, pháp lệnh liên quan đến lĩnh vực công tác tư pháp cũng được xây dựng. Nội dung các dự án luật, pháp lệnh đã bám sát và kịp thời thể chế hoá nhiều chủ trương, chính sách của Nghị quyết số 49-NQ/TW về hình sự, dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đặc biệt là Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009, Bộ Luật hình sự năm 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Bộ Luật Dân sự năm 2015… Với trách nhiệm của mình, tỉnh Thái Nguyên đã góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp. Sau khi Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật Hình sự, Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017 được ban hành, Sở Tư pháp đã phối hợp cùng các Sở, ngành, địa phương cấp huyện tổ chức 23 hội nghị tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ, công chức các cấp với trên 4500 lượt người tham dự.
Cùng với hoạt động tham gia xây dựng hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp, tỉnh Thái Nguyên đã quan tâm xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế của tỉnh, từ năm 2016 đến nay, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành 304 văn bản QPPL (trong đó có 68 Nghị quyết), thể chế hóa đầy đủ và kịp thời các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước, đáp ứng theo từng giai đoạn phát triển và các lĩnh vực quản lý, phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống văn bản QPPL của tỉnh ban hành đã đã góp phần rất lớn thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2016-2020.
Thực hiện Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Thông tư số 07/2020/TT-BTP ngày 21/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện. Sở Tư pháp đã tham mưu cho UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 71/QĐ-UBND ngày 13/01/2021 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên. Theo đó, tổ chức bộ máy của Sở Tư pháp được kiện toàn như sau:
- Về tổ chức bộ máy: Sở Tư pháp có 05 phòng chuyên môn trực thuộc, giảm 02 phòng so với trước đó;
- Về nhiệm vụ, quyền hạn: giảm nhiệm vụ kiểm soát thủ tục hành chính (chuyển sang Văn phòng UBND tỉnh), bổ sung các nhiệm vụ quản lý nhà nước về hòa giải thương mại; thừa phát lại; quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản; đăng ký biện pháp bảo đảm.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, với số biên chế ở các cấp không nhiều và giảm qua từng năm, ngành tư pháp đã có nhiều nỗ lực để kiện toàn về tổ chức, xây dựng vị trí việc làm khoa học, phát huy tối đa năng lực, sở trường của công chức, viên chức, đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
Về phát triển đội ngũ luật sư
Sở Tư pháp tiếp tục chủ động phối hợp với các ngành chức năng tăng cường công tác tham mưu giúp UBND tỉnh triển khai thực hiện chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng, chính sách pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh, trong đó tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 39-CT/TU ngày 15/10/2013 về việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với tổ chức và hoạt động hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và Đề án về phát triển đội ngũ Luật sư giai đoạn 2010 - 2015 và định hướng đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh; tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 67/KH-UBND ngày 16/5/2019 triển khai thực hiện Nghị định số 137/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị định số 123/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên...
Thường xuyên nắm bắt thuận lợi, khó khăn, vướng mắc của Đoàn Luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, các luật sư cũng như những ý kiến phản ánh của các cơ quan, tổ chức liên quan; có những giải pháp phù hợp để tháo gỡ những khó khăn, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động của luật sư được thuận lợi, hiệu quả hơn cũng như kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót trong hoạt động hành nghề luật sư trên địa bàn tỉnh. Các thủ tục hành chính về hoạt động luật sư đã được công khai, minh bạch, quy trình thủ tục giải quyết hồ sơ chặt chẽ và đảm bảo đúng thời hạn quy định. Từ đó đội ngũ luật sư trên địa bàn tỉnh đã có sự phát triển nhanh chóng về số lượng, chất lượng cũng như tính chuyên nghiệp trong hoạt động hành nghề. Cho đến nay Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên đã có 53 luật sư hoạt động tại 19 Văn phòng luật sư, có 42 luật sư là Đảng viên, các luật sư chủ yếu là cán bộ nhiều kinh nghiệm, công tác ở các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan Công an đã nghỉ hưu .
Từ năm 2016 đến nay, các tổ chức hành nghề luật sư đã thụ lý giải quyết 1211 vụ việc, trong đó có 601 vụ việc tố tụng,  674 hoạt động tư vấn và dịch vụ pháp lý khác và 302 việc trợ giúp pháp lý.
Kết quả hoạt động nghề nghiệp của luật sư đã góp phần bảo vệ công lý, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp, đóng góp tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh những năm qua.
Về kiện toàn tổ chức, hoạt động giám định tư pháp
Ngành Tư pháp đã phát huy vai trò đầu mối, chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức quán triệt, nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành về vai trò, ý nghĩa của công tác giám định tư pháp đối với hoạt động tố tụng và cải cách tư pháp; tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo các cơ quan chức năng từng bước bố trí trụ sở, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các tổ chức giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh, đặc biệt quan tâm đến hai lĩnh vực giám định pháp y và giám định kỹ thuật hình sự (các lĩnh vực giám định phải giải quyết số lượng công việc lớn, thường xuyên được cá nhân, tổ chức yêu cầu giám định). Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đã làm tốt công tác tham mưu cho UBND tỉnh bổ nhiệm giám định viên tư pháp; người được bổ nhiệm giám định viên tư pháp đảm bảo có đủ các tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật. Do đó hoạt động giám định tư pháp có sự chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, trả lời đúng hạn theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng; số lượng các vụ việc giám định bổ sung, giám định lại không nhiều, góp phần hỗ trợ tích cực cho hoạt động tố tụng, giúp các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử giải quyết các vụ án chính xác, khách quan và đúng luật.
Hiện nay tỉnh Thái Nguyên có 02 tổ chức giám định tư pháp (Trung tâm Pháp y tỉnh và Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh), tổng số giám định viên trên địa bàn tỉnh hiện có 96 Giám định viên, trong đó có: 22 Giám định viên Kỹ thuật hình sự, 13 Giám định viên Pháp y, 02 Giám định viên lĩnh vực xây dựng, 05 Giám định viên lĩnh vực văn hoá, 05 Giám định viên lĩnh vực tài nguyên và môi trường, 37 Giám định viên lĩnh vực tài chính, 06 Giám định viên thuộc lĩnh vực thông tin truyền thông. Các Giám định viên chuyên trách hoạt động tại Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh, và Trung tâm Pháp y tỉnh Thái Nguyên, còn lại là hoạt động kiêm nhiệm .
Đội ngũ Giám định viên thường xuyên được rà soát, kiện toàn, đảm bảo về chất lượng, số lượng, trong đó khuyến khích sử dụng những giám định viên đã nghỉ hưu theo chế độ. Hoạt động đào tạo, quy hoạch phát triển cán bộ làm công tác giám định tư pháp được quan tâm thực hiện, đồng thời thực hiện tốt chế độ chính sách đối với người giám định tư pháp, chế độ thi đua khen thưởng, tôn vinh người giám định tư pháp.
Từ 2016 đến nay, các Giám định viên đã thực hiện được 9837 vụ việc giám định, trong đó có 4645 vụ việc giám định pháp y, 5105 giám định kỹ thuật hình sự, 87 việc theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân khác. Kết quả hoạt động giám định tư pháp góp phần tích cực trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Việc kiện toàn tổ chức và hoạt động công chứng
Thực hiện Luật Công chứng năm 2014, Sở Tư pháp đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, triển khai Luật, cụ thể: Quyết định số 644/QĐ-UBND ngày 19/3/2015 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công chứng năm 2014 trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 15/2016/QĐ-UBND ngày 20/5/2016 quy định mức trần thù lao công chứng và mức trần chi phí chứng thực trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên; Quyết định số 3403/QĐ-UBND ngày 14/12/2016 ban hành Quy định về tiêu chí và quy trình xét duyệt hồ sơ thành lập văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh thái nguyên; Quyết định số 1422/QĐ-UBND ngày 29/5/2019 sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chí và quy trình xét duyệt hồ sơ thành lập văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ban hành kèm theo Quyết định số Quyết định số 3403/QĐ-UBND ngày 14/12/2016.
Việc xã hội hoạt động công chứng theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (Khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 tiếp tục được đẩy mạnh. Năm 2015, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên có 08 tổ chức hành nghề công chứng (02 Phòng công chứng, 06 Văn phòng công chứng) và 17 Công chứng viên hành nghề công chứng, đến nay toàn tỉnh đã có 18 tổ chức hành nghề công chứng được thành lập (02 Phòng công chứng, 16 Văn phòng công chứng) và 33 Công chứng viên . Việc chuyển đổi Phòng Công chứng sang Văn phòng công chứng chưa được thực hiện do chưa đủ điều kiện theo quy định tại Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, đồng thời xét về tính chất, vai trò và tình hình tổ chức và hoạt động của Phòng Công chứng của tỉnh thì việc chưa chuyển đổi là cần thiết.
Năm 2015, Hội Công chứng tỉnh Thái Nguyên được thành lập (theo Quyết định số 2702/QĐ-UBND ngày 09/10/2015 của UBND tỉnh) và ký kết Quy chế phối hợp quản lý về tổ chức và hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Hội Công chứng tỉnh đã có hoạt động hợp tác quốc tế với Hội đồng công chứng viên vùng Rouen - Normandie, Pháp trong việc trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động công chứng.
Trong những năm qua hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh ngày càng đi vào nề nếp, góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, bảo đảm cơ sở, an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, góp phần tăng cường quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực, phục vụ tích cực cho công cuộc cải cách tư pháp, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi và tin cậy cho các hoạt động đầu tư kinh doanh, thương mại trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Từ năm 2016 đến nay các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh  đã thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch, nhận lưu giữ di chức, cấp bản sao văn bản công chứng được 197.767 việc; chứng thực chữ ký, chứng thực bản sao từ bản chính được 101.277 việc, nộp ngân sách nhà nước 10.781.291.000 đồng.
Việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về chế định thừa phát lại
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của Quốc Hội về thực hiện chế định Thừa phát lại (Thừa phát lại được thực hiện chính thức trên phạm vi toàn quốc kể từ ngày 01/01/2016), UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 37/KH-UBND ngày 29/4/2016 triển khai thực hiện Nghị quyết số 107/QH13 và Quyết định số 101/QĐ-TTG ngày 14/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế định thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và ban hành Đề án số 2181/ĐA-UBND ngày 12/6/2018 về Đề án thực hiện chế định thừa phát lại trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên (ngày 10/12/2018 Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2981/QĐ-BTP phê duyệt kế đề án).
Trong năm 2019, UBND tỉnh Thái Nguyên đã quyết định cho phép thành lập 03 Văn phòng Thừa phát lại (Văn phòng Thừa phát lại Nam Thái; Văn phòng Thừa phát lại Thái Nguyên; Văn phòng Thừa phát lại Trường Phúc).
Đến hết năm 2020, các Văn phòng Thừa phát lại mới hoạt động được 15 tháng, do đó số việc phát sinh chưa nhiều, chủ yếu là hoạt động lập vi bằng với 134 việc được thực hiện.
Về hoạt động trợ giúp pháp lý
Từ năm 2015 đến nay, về tổ chức của hoạt động trợ giúp pháp lý có nhiều thay đổi. Từ ngày 01/6/2015 đến ngày 31/12/2017, thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư pháp và trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động của các Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý ở địa phương, UBND tỉnh đã giao Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Chủ tịch UBND các huyện, thành phố, thị xã chỉ đạo UBND cấp xã nơi có Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý xem xét, quyết định việc giải thể các Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý trên địa bàn hoạt động không hiệu quả, đến ngày 31/12/2017, 115/115 Câu lạc bộ Trợ giúp pháp lý đã được giải thể. Thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 UBND tỉnh Thái Nguyên đã chỉ đạo Sở Tư pháp tiến hành rà soát và đánh giá hiệu quả hoạt động của 03 Chi nhánh trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý, ngày 1/10/2020 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 3058/QĐ-UBND giải thể các Chi nhánh Trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý. Trung tâm Trợ giúp pháp lý  hiện có 05 Trợ giúp viên pháp lý (Trợ giúp viên pháp lý hạng II là 02 người, hạng III là 03 người) và 16 luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm.
Thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành, đặc biệt là Thông tư liên tịch 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng. Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng tỉnh Thái Nguyên được thành lập và thường xuyên kiện toàn, hoạt động ngày càng hiệu quả; các thành viên trong hội đồng có sự phối hợp chặt chẽ, tham gia nhiệt tình đã tác động tích cực đến công tác trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng; quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước ngày càng được củng cố, tăng cường, do vậy chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng được nâng lên và đạt được những kết quả quan trọng.
Trong kỳ báo cáo, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Nguyên đã tiếp nhận, giải quyết 5608 vụ việc, trong đó tư vấn pháp luật 4197 vụ việc, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng 1411 vụ việc. Từ kết quả công tác trợ giúp pháp lý thời gian qua đã góp phần đưa pháp luật đến với người dân, nâng cao nhận thức, vị trí, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội; giải quyết ngay từ cơ sở những mâu thuẫn của người dân, hạn chế những việc khiếu kiện vượt cấp, kéo dài khẳng định vai trò của trợ giúp pháp lý trong chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách dân tộc của Nhà nước.
Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của ngành Tư pháp, từ năm 2015 đến nay ngành luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư pháp về kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ, lý luận chính trị và quản lý nhà nước, xây dựng vị trí việc làm phù hợp với từng chức danh, chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực, sở trường nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cả về nhận thức chính trị, phẩm chất nghề nghiệp lẫn năng lực chuyên môn, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Trong bối cảnh toàn tỉnh thực hiện mục tiêu tinh giản tổ chức, bộ máy, biên chế các cơ quan nhà nước, tuy nhiên các cấp, các ngành đã quan tâm củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ ngành tư pháp:
- Các Phòng Tư pháp cấp huyện hiện có 34 công chức (tăng so với năm 2015 là 02 người/trung bình mỗi phòng có 3,7 người), toàn tỉnh có 243 công chức tư pháp - hộ tịch (tăng so với năm 2015 là 72 người/trung bình mỗi đơn vị có 1,35 công chức tư pháp - hộ tịch), trong đó trình độ đào tạo chuyên môn luật là: 234, đạt 96,2% (tăng 4,4% so với năm 2015). 
- Sở Tư pháp được giao 24 biên quản lý nhà nước (giảm 01 biên chế so với năm 2019); 31 biên chế sự nghiệp, trong đó có 26 người có chức danh tư pháp (06 Công chứng viên; 05 Đấu giá viên; 05 Trợ giúp viên pháp lý); 05 hợp đồng lao động theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP. 
Công tác kiểm tra, thanh tra được thực hiện thường xuyên, đặc biệt là đối với hoạt động bổ trợ tư pháp; hằng năm Sở đều ban hành kế hoạch kiểm tra, thanh tra với đối với các tổ chức hành nghề luật sư, công chứng, giám định tư pháp, phát hiện, chấn chỉnh, xử lý kịp thời các tồn tại, thiếu sót, sai phạm.
Hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách tư pháp là giải pháp quan trọng giúp chính quyền các cấp mở rộng mối quan hệ hợp tác, tiếp thu kinh nghiệm cần thiết, cũng như giới thiệu với với bạn bè quốc tế về công tác xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp. Nhận thức rõ điều đó, tỉnh Thái Nguyên đã có sự quan tâm nhất định đến công tác hợp tác với nước ngoài nói chung và hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW và Chỉ thị số 39-CT/TW ngày 09/12/2009 của Ban Bí thư về hợp tác với nước ngoài về pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và cũng đã có một số hoạt động hợp tác được triển khai như: Công an tỉnh Thái Nguyên ký thoả thuận hp tác kết nghĩa với Sở Cảnh sát tỉnh Gyeongsangbukdo, Hàn Quốc; Công an tỉnh phối hợp với INTERPOL và cơ quan chức năng của Trung Quốc thực hiện một số hoạt động tương trợ tư pháp để truy bắt tội phạm; Hội Công chứng viên tỉnh Thái Nguyên ký kết hợp tác công chứng với Hội đồng Công chứng TP Rouen – vùng Normandie – Cộng hòa Pháp.
Cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của cơ quan tư pháp các cấp được UBND cùng cấp quan tâm đảm bảo; Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp cấp huyện và công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã được quan tâm bố trí kinh phí, phương tiện làm việc, cơ bản đáp ứng yêu cầu hoạt động. Kinh phí đảm bảo cho hoạt động bổ trợ tư pháp cũng được quan tâm: Các Phòng công chứng, Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước được nhà nước đầu tư về cơ sở vật chất, đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu của tổ chức, công dân; các tổ chức giám định tư pháp đã được trang bị một số thiết bị, phương tiện làm việc hiện đại, cơ bản đáp ứng yêu cầu giám định tư pháp; Văn phòng công chứng, Văn phòng Luật sư cũng được các tổ chức, cá nhân thành lập đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý của tổ chức, cá nhân.
Một số hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
Tồn tại, hạn chế:
- Chất lượng đội ngũ luật sư chưa đồng đều, hoạt động luật sư chủ yếu cung cấp dịch vụ pháp lý là tham gia tố tụng, có rất ít luật sư trên địa bàn tỉnh có khả năng tư vấn trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại. Hơn nữa đa số luật sư trình độ ngoại ngữ còn hạn chế, chưa có khả năng làm việc trong môi trường pháp lý quốc tế; Đặc thù của luật sư là hành nghề tự do nên công tác nắm bắt kịp thời, toàn diện đối với toàn bộ hoạt động hành nghề luật sư đôi lúc có những khó khăn, vướng mắc nhất định; Việc tuân thủ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư vẫn chưa được một số luật sư nhận thức đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác trong hoạt động hành nghề.
- Giám định viên tư pháp chủ yếu là kiêm nhiệm, hoạt động giám định tư pháp chỉ là công việc phụ, ít thời gian để học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật chuyên sâu trong lĩnh vực giám định tư pháp, do đó hoạt động còn thiếu chủ động, chất lượng, hiệu quả chưa cao; hơn nữa do bổ nhiệm giám định viên kiêm nhiệm, dẫn đến chưa thể thực hiện trên cơ sở quy hoạch phát triển đội ngũ giám định viên, sẽ không chủ động được nguồn giám định viên đảm bảo chất lượng cũng như số lượng; Xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp gặp khó khăn, hiện tỉnh Thái Nguyên chưa có tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập, toàn bộ hoạt động giám định do 02 tổ chức của Nhà nước thực hiện.
- Trên địa bàn tỉnh việc đăng ký tài sản tài sản gắn liền với đất chưa được người dân, doanh nghiệp chú ý thực hiện đăng ký, khi thực hiện các thủ tục công chứng còn gặp nhiều khó khăn, cụ thể: Người yêu cầu công chứng chứng có cả nhà và đất, đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhà chỉ có giấy phép xây dựng chưa thực hiện đăng ký tài sản trên đất. Khi làm hợp đồng thế chấp bên nhận thế chấp đã định giá tài sản có cả nhà và đất, tuy nhiên khi thực hiện công chứng tài sản trên đất chưa được đăng ký sở hữu, nếu công chứng viên từ chối sẽ làm khó khăn cho việc yêu cầu công chứng còn thực hiện căn cứ chứng minh tài sản trên đất là chưa đúng quy định của pháp luật;
- Một số quy định liên quan đến hoạt động công chứng tại Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành có điểm chưa đồng bộ với Luật Công chứng cụ thể như: Thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng, quy định về hộ gia đình, cách xác định các thành viên của hộ gia đình dẫn đến còn có khó khăn, lúng túng nhất định trong hoạt động công chứng;
- Tại Điều 22 Luật Công chứng quy định “Văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn”. “ Tên gọi của Văn phòng công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn phòng công chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng do các công chứng viên hợp danh thỏa thuận, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc.”
Quy định Văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn gây khó khăn cho Văn phòng công chứng có nhu cầu mở rộng, đầu tư cơ sở vật chất nâng cao chất lượng hoạt động để phục vụ khách hàng, vì không phải công chứng viên hợp danh nào cũng có điều kiện về kinh tế để đầu tư vào cơ sở vật chất của văn phòng. Về tên gọi Văn phòng công chứng cũng có những bất cập, khi có thay đổi thành viên hợp danh Văn phòng Công chứng phải thay đổi hết hệ thống biển hiệu của văn phòng, thay đổi dấu của văn phòng, dẫn đến lãng phí,  xáo trộn, mất tính ổn định của các văn phòng công chứng, đồng thời khó khăn cho công tác quản lý nhà nước.
- Điều 44 Luật Công chứng quy định “Việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng trong trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.”. Quy định có tính “mở” dẫn đến việc Công chứng viên có thể tùy tiện xác định “lý do chính đáng” để thực hiện nhiều hoạt động công chứng ngoài trụ sở.
- Chế định Thừa phát lại là một hoạt động bổ trợ tư pháp mới được triển khai trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên do đó các Văn phòng Thừa phát lại hoạt động còn có khó khăn nhất định trong hoạt động, số việc phát sinh chưa nhiều và chủ yếu là hoạt động lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
- Số người thuộc diện trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên rất lớn, trong khi số lượng Trợ giúp viên pháp lý còn ít chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; Hoạt động truyền thông pháp luật về trợ giúp pháp lý tại một số địa bàn chưa đạt hiệu quả cao; Số lượng vụ việc có sự tham gia của trợ giúp pháp lý tuy đã tăng cao nhưng so với tổng số vụ việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc giải quyết mà người bị buộc tội, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là đối tượng được trợ giúp pháp lý chiếm tỷ lệ còn thấp.
Nguyên nhân:
- Các biện pháp hỗ trợ đối với hoạt động hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề luật sư chỉ dừng lại ở việc đề nghị giải quyết hoặc kiến nghị đối với cơ quan nhà nước thẩm quyền những khó khăn, vướng mắc của các tổ chức hành nghề luật sư trong quá trình hoạt động hành nghề luật sư. Chưa có được những giải pháp mang tính chiến lược nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hành nghề của các tổ chức hành nghề luật sư;
- Đa số luật sư nguyên là cán bộ, công chức công tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng đã nghỉ hưu, tuổi cao; việc phát triển, thu hút đội ngũ luật sư trẻ được qua đào tạo nghiệp vụ bài bản là rất khó khăn; bên cạnh đó chất lượng của quá trình tập sự hành nghề luật sư, cũng như việc kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư còn có những bất cập, chương trình đào tạo nghề luật sư chưa chú trọng đúng mức tới việc trang bị kỹ năng hành nghề luật sư cũng như quy tắc đạo đức và ứng xử nghề luật sư.
- Công tác rà soát, quy hoạch cán bộ, giám định viên tư pháp chưa thường xuyên; các bộ, ngành liên quan chưa xây dựng các quy chuẩn chuyên môn, quy trình giám định về các lĩnh vực giám định nhất là lĩnh vực về tài chính, tài nguyên và môi trường, nên khó khăn trong việc thực hiện giám định;
- Chế độ phụ cấp đặc thù còn thấp, điều kiện làm việc thường xuyên phải tiếp xúc với hóa chất độc hại, tử thi nên chưa thu hút được người có trình độ và tâm huyết với nghề.
- Hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động công chứng còn có điểm chưa đồng bộ, chưa thống nhất. Còn có quy định của Luật Công chứng chưa chặt chẽ, hợp lý dẫn đến hoạt động quản lý nhà nước còn có những khó khăn nhất định.
- Nhận thức về vai trò, trách nhiệm của công tác trợ giúp pháp lý của một số đơn vị, địa phương còn chưa cao, chưa dành nhiều sự quan tâm đến hoạt động này;
- Hoạt động truyền thông pháp luật về trợ giúp pháp lý tại một số địa bàn chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là nhóm người nghèo, người dân tộc thiểu số chưa biết đến hoạt động TGPL.
Những bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp:
- Công tác chỉ đạo, điều hành trong hoạt động quản lý các lĩnh vực tư pháp phải bám sát nội dung Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh và chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, chương trình trọng tâm cải cách tư pháp của tỉnh; Thực hiện có trọng tâm, trọng điểm theo từng tháng, quý; Chỉ đạo đồng bộ từ cấp tỉnh đến cấp xã, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu.
- Đổi mới công tác chỉ đạo điều hành thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phát huy vai trò, trách nhiệm cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ được phân công, tăng cường đạo đức công vụ.
- Công tác xây dựng các chương trình, kế hoạch cải cách tư pháp cần lựa chọn những nhiệm vụ trọng tâm, sát với yêu cầu thực tiễn, đồng thời cần xác định rõ nguồn lực để thực hiện đảm bảo hiệu quả, kết quả thực hiện cao.
- Trong điều kiện hoạt động quản lý nhà nước về tư pháp ngày càng rộng, với rất nhiều nhiệm vụ mới, đồng thời hệ thống pháp luật điều chỉnh thường xuyên thay đổi. Vì vậy hoạt động thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn nghiệp vụ công tác tư pháp đặc biệt là các lĩnh vực bổ trợ tư pháp cần thực hiện thường xuyên hơn.
- Xây dựng tổ chức ngành và xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đặc biệt là đầu tư về nghiệp vụ cho cán bộ cơ sở là vấn đề mấu chốt quyết định đối với hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp, cải cách tư pháp.
- Công tác tiếp nhận các phản ánh của người dân và tổ chức về hoạt động tư pháp cần được quan tâm hơn nữa, nhằm có đánh giá chân thực, đa chiều để có những điều chỉnh, rút kinh nghiệm kịp thời trong hoạt động tư pháp.
Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp công tác cải cách tư pháp giai đoạn 2021-2025
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo:
- Tiếp tục quán triệt thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Bám sát các nội dung cải cách tư pháp thuộc trách nhiệm của ngành Tư pháp để tập trung lãnh đạo chỉ đạo thực hiện; Đề ra nhiều giải pháp, đổi mới, sáng tạo trong chỉ đạo điều hành, triển khai nhiệm vụ có trọng tâm, chú trọng cơ sở, đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, cải tiến lề lối làm việc; phát huy hiệu quả cơ chế phối hợp trong công tác tư pháp; tập trung mọi nguồn lực triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ công tác Tư pháp nói chung và cải cách tư pháp;
- Tăng cường tham mưu hoàn thiện, củng cố nâng cao chất lượng các hoạt động bổ trợ tư pháp, đồng thời tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt động bổ trợ tư pháp;
- Kiện toàn về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp từ tỉnh đến cấp xã, nhằm xây dựng, củng cố và phát triển hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp đảm bảo khoa học, hợp lý, hiệu quả và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Đẩy mạnh hoạt động quy hoạch, phát triển, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các chức danh tư pháp như Luật sư, Công chứng viên, Trợ giúp viên pháp lý, Giám định viên tư pháp, Thừa phát lại  đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao của hoạt động bổ tư pháp hiện nay và trong thời gian tới.
Một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể
* Về phát triển đội ngũ luật sư
- Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; lồng ghép việc thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW với việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; xây dựng và triển khai thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư; tạo điều kiện cho đội ngũ luật sư đóng góp trí tuệ, phát huy chức năng xã hội của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị của tỉnh;
- Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ luật sư, xây dựng đội ngũ luật sư vững về bản lĩnh chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Đồng thời thường xuyên thanh tra, kiểm tra và kịp thời chấn chỉnh, xử lý vi phạm đối với tổ chức, hoạt động luật sư;
- Tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm đối với các cơ quan lãnh đạo của Đoàn Luật sư đảm bảo về số lượng và nâng cao chất lượng; có chính sách hỗ trợ trang bị thêm cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động cho Đoàn Luật sư tỉnh nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.
* Hoạt động giám định tư pháp
- Triển khai thực hiện hiệu quả Kế hoạch số 134/KH-UBND ngày 24/12/2018 triển khai thực hiện Đề án tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên;
- Tiếp tục quan tâm đầu tư, củng cố, kiện toàn các tổ chức giám định tư pháp công lập bao (Phòng Kỹ thuật hình sự và Trung tâm Pháp y tỉnh) đồng thời tạo điều kiện thuận lợi thu hút các tổ chức cá nhân đầu tư cơ sở vật chất và nguồn lực vào hoạt động giám định nhằm từng bước xã hội hóa hoạt động giám định;
- Có quy hoạch, định hướng phát triển đội ngũ giám định viên trẻ, tạo nguồn kế thừa trong thời gian tới; chú trọng đào tạo giám định viên tư pháp ở các lĩnh vực mà hiện nay tỉnh đang thiếu hoặc dự báo sẽ thiếu, như lĩnh vực pháp y, ngân hàng có chế độ bồi dưỡng, chính sách ưu đãi để thu hút đội ngũ những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực tham gia vào hoạt động giám định tư pháp.
* Hoạt động công chứng
Tập trung tham mưu cho UBND tỉnh triển khai các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 172/NQ-CP ngày 19/11/2020 của Chính phủ về chính sách phát triển nghề công chứng, cụ thể:
- Nghiên cứu xây dựng tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng theo quy định của Luật Công chứng (sau khi có hướng dẫn cụ thể của Bộ Tư pháp). Thực hiện chặt chẽ công tác thẩm tra hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng, hồ sơ thay đổi địa điểm trụ sở của Văn phòng công chứng từ địa bàn cấp huyện này sang địa bàn cấp huyện khác, bảo đảm thực hiện đúng Tiêu chí đã được ban hành;
-  Nghiên cứu xây dựng Đề án tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động công chứng tại địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp tục xã hội hóa hoạt động công chứng, bảo đảm phát triển nghề công chứng phù hợp với định hướng của Luật Công chứng, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tư pháp và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương;
- Xem xét chuyển đổi hoạt động của Phòng công chứng đủ điều kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên cơ sở Nhà nước thực hiện lộ trình bảo đảm kinh phí hoạt động có thời hạn theo đúng tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW; duy trì Phòng công chứng đã tự chủ về tài chính để giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp dịch vụ công chứng; chuyển đổi hoặc giải thể Phòng công chứng hoạt động không hiệu quả tại các địa bàn mà Văn phòng công chứng đã đáp ứng được nhu cầu công chứng; những nơi khó khăn chưa có điều kiện xã hội hóa hoạt động công chứng có thể thành lập Phòng công chứng để đáp ứng yêu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức;
-  Đẩy mạnh việc tuyên truyền nâng cao nhận thức của công dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về vị trí, vai trò của hoạt động công chứng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm công chứng viên vi phạm pháp luật, đạo đức nghề nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng vi phạm pháp luật; kiên quyết tạm đình chỉ hành nghề công chứng, miễn nhiệm công chứng viên, chấm dứt hoạt động hoặc các hình thức xử lý tương ứng khác đối với các hành vi vi phạm pháp luật của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng.
- Thường xuyên trao đổi thông tin về tình hình tổ chức và hoạt động công chứng nhằm phát hiện, điều tra, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi giả mạo tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên, người yêu cầu công chứng, giấy tờ liên quan đến hoạt động công chứng; lợi dụng công chứng để hợp pháp hóa các giao dịch bất hợp pháp; lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đồng thời bảo đảm quyền hành nghề hợp pháp của công chứng viên;
- Tạo điều kiện hỗ trợ về cơ sở vật chất để tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên thực hiện tốt nhiệm vụ tự quản theo đúng quy định của Kết luận số 102-KL/TW ngày 22 tháng 9 năm 2014 của Bộ Chính trị về hội quần chúng;
- Tăng cường hợp tác quốc tế, học tập kinh nghiệm về quản lý hoạt động công chứng, hành nghề công chứng tại các quốc gia có nghề công chứng phát triển.
* Hoạt động trợ giúp pháp lý
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn;
- Thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý, trong đó chú trọng vụ việc tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng tư vấn pháp luật, chất lượng hoạt động của Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng;
- Tăng cường công tác truyền thông về hoạt động trợ giúp pháp lýduy trì đường dây nóng về trợ giúp pháp lý.
* Hoạt động Thừa phát lại
- Tập trung thực hiện Kế hoạch số 60/KH-UBND ngày 11/5/2020 của UBND tỉnh Thái Nguyên về triển khai thực hiện Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại trên địa bàn tỉnh thái nguyên;
- Nghiên cứu, rà soát, tham mưu phê duyệt (sửa đổi, bổ sung) Đề án phát triển Văn phòng Thừa phát lại trên địa bàn tỉnh phù hợp với tiêu chí theo quy định;
- Tăng cường công tác theo dõi, hướng dẫn; tổ chức các hoạt động tập huấn, hội thảo, tọa đàm nhằm nâng cao chất lượng, kỹ năng hành nghề cho đội ngũ Thừa phát lại, thư ký nghiệp vụ Thừa phát lại;
- Nghiên cứu xây dựng cơ sở dữ liệu về vi bằng và quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về vi bằng.
 

Tác giả bài viết: Vũ Thị Lệ Hằng, Giám đốc Sở Tư pháp

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Top
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây