KỸ NĂNG BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
Nguyễn Thùy Dương
2021-12-19T20:49:24-05:00
2021-12-19T20:49:24-05:00
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/huong-dan-nghiep-vu/ky-nang-ban-hanh-quyet-dinh-xu-ly-vi-pham-hanh-chinh-118.html
/themes/netegov/images/no_image.gif
Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên - Cổng thông tin điện tử Phổ biến giáo dục pháp luật
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/uploads/botuphap.png
Khi ban hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính phải tuân thủ các yêu cầu hợp pháp mà pháp luật đã quy định. Các yêu cầu về tính hợp pháp của quyết định xử lý vi phạm hành chính luôn gắn liền với yêu cầu, mục đích của hoạt động quản lý hành chính (hoạt động thực thi pháp luật) là “căn cứ để kiểm tra đánh giá” của Tòa án khi có khiếu kiện yêu cầu hủy bỏ các quyết định xử lý vi phạm hành chính.
1. Các yêu cầu hợp pháp của các quyết định xử lý vi phạm hành chính
Khi ban hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính phải tuân thủ các yêu cầu hợp pháp mà pháp luật đã quy định. Các yêu cầu về tính hợp pháp của quyết định xử lý vi phạm hành chính luôn gắn liền với yêu cầu, mục đích của hoạt động quản lý hành chính (hoạt động thực thi pháp luật) là “căn cứ để kiểm tra đánh giá” của Tòa án khi có khiếu kiện yêu cầu hủy bỏ các quyết định xử lý vi phạm hành chính.
1.1 Các yêu cầu hợp pháp về hình thức, thủ tục
a) Hợp pháp về thẩm quyền
Thẩm quyền ban hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính thuộc về cá nhân người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các cơ quan nhà nước. Các chức danh có thẩm quyền xử phạt được quy định trong Luật Xử lý vi phạm hành chính và các Nghị định xử phạt trong tất cả các lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Yêu cầu hợp pháp về thẩm quyền được xem xét với các nội dung:
+ Thẩm quyền theo lĩnh vực: phân biệt thẩm quyền giữa hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước với nhau.
Ví dụ: thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực đất đai; thẩm quyền xử phạt trong lĩnh vực xây dựng...
+ Thẩm quyền theo lãnh thổ: Thẩm quyền của các cơ quan nhà nước trong phạm vi địa lý xác định.
Ví dụ: thẩm quyền xử phạt của Chánh thanh tra chuyên ngành đất đai tỉnh H với thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chánh thanh tra chuyên ngành đất đai tỉnh M.
+ Giao quyền trong xử lý vi phạm hành chính: Trong một số trường hợp người có thẩm quyền ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính có thể giao quyền cho cấp phó ban hành quyết định thay mình và nhân danh mình. Tuy nhiên, pháp luật quy định việc giao quyền phải tuân thủ theo nguyên tắc chỉ được thực hiện khi có văn bản giao quyền (Điều 54 Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện có thể giao quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính về đất đai; xây dựng.
b) Hợp pháp về Thủ tục
Quyết định xử lý vi phạm hành chính phải tuân thủ các trình tự, thủ tục chung do pháp luật về xử lý vi phạm hành chính quy định. Các yêu cầu chung về thủ tục như: thủ tục đình chỉ vi phạm hành chính; thủ tục khám, tạm giữ phương tiện đồ vật vi phạm hành chính; thủ tục lập biên bản vi phạm hành chính (Điều 58); thủ tục xác minh sự việc (Điều 59); xác định giá trị tang vật; Thủ tục giải trình (Điều 61); thủ tục công bố công khai quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Ngoài yêu cầu hợp pháp về thủ tục chung khi ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính cần chú ý không được vi phạm những thủ tục cụ thể theo quy định của các văn bản pháp luật chuyên ngành...
Ví dụ: khi tiến hành xử phạt hành vi vi phạm về đất đai tại Điều 6 Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định chuyển mục đích sử dụng lúa có thể cần phải tiến hành thủ tục đo đạc để xác định diện tích đất bị vi phạm và thủ tục trưng cầu tổ chức có chức năng đo đạc thực hiện.
c) Hợp pháp về hình thức
Hình thức theo nghĩa hẹp được ban hành theo yêu cầu ở dạng văn bản (Mẫu quyết định xử lý vi phạm hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP). Yêu cầu dạng văn bản mẫu sẽ được cụ thể hoá bổ sung nội dung theo từng lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Yêu cầu về hình thức của các quyết định xử lý vi phạm hành chính phải nêu rõ lý do ban hành (căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế). Đây là yêu cầu quan trọng quy định về hình thức của một quyết định áp dụng pháp luật.
Quyết định xử lý vi phạm hành chính ban hành không đúng hình thức có thể gây hiểu lầm về nội dung, tính chất vụ việc. Ban hành không đúng thủ tục có thể làm cho nội dung quyết định không chính xác, thiếu khách quan, trong một số trường hợp ban hành không đúng thủ tục dẫn đến quyết định không có hiệu lực pháp lí.
1.2. Các yêu cầu hợp pháp về nội dung
a) Căn cứ pháp lý để áp dụng
Việc áp dụng các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế, quyết định xử lý vi phạm hành chính không được áp dụng vào một quy phạm pháp luật đã hết hiệu lực hoặc quy phạm pháp luật đó nhằm áp dụng vào những tình huống khác.
Ví dụ: Hành vi xây dựng trên đất lấn chiếm khi tiến hành ban hành quyết định xử phạt có trường hợp áp dụng Nghị định xử phạt trong lĩnh vực đất đai; có trường hợp áp dụng Nghị định xử phạt trong hoạt động xây dựng.
b) Căn cứ thực tế
Các tình tiết thực tế phải đảm bảo tính chính xác, khách quan và cấu thành hành vi vi phạm hành chính. Hành vi vi phạm đó phải được mô tả và quy định trong pháp luật xử phạt vi phạm hành chính của từng lĩnh vực.
Khi áp dụng các chế tài hành chính (hình thức xử phạt) đảm bảo nguyên tắc hành vi vi phạm nào phải được áp dụng chế tài đó, không lạm quyền hoặc đưa ra các hình thức xử phạt không phù hợp, thiếu khả thi không bảo đảm các quyền cơ bản của công dân.
Tất cả các yếu tố về tính hợp pháp nêu trên của quyết định xử lý vi phạm hành chính đều có vai trò quan trọng như nhau. Tuy nhiên nhìn từ góc độ quyền cơ bản của công dân thì yếu tố hợp pháp về nội dung có vị trí rất quan trọng.
2. Kỹ năng ban hành các quyết định xử lý vi phạm hành chính
2.1. Ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính
Việc áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính để ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là một quá trình phức tạp được tiến hành qua các giai đoạn khác nhau như: xác định hành vi vi phạm hành chính; áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả; ra quyết định xử phạt và thực hiện quyết định xử phạt.
Đó là một quá trình áp dụng pháp luật đòi hỏi người có thẩm quyền xử phạt phải tiến hành một cách thận trọng, khách quan, đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính và quy định của pháp luật có liên quan.
Có thể xác định các bước trong quá trình ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính như sau:
2.1.1. Phân tích các tình tiết khách quan của vụ vi phạm hành chính
Thực hiện nghĩa vụ chứng minh có hành vi vi phạm hành chính, theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính “người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm hành chính”.
a) Xác định cấu thành hành vi vi phạm hành chính
Bất kỳ một hành vi vi phạm pháp luật nào đều vi phạm một yêu cầu nào đó của một quy phạm pháp luật cụ thể. Dấu hiệu chung của vi phạm pháp luật là tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhưng giữa chúng lại có sự khác nhau ở mức độ nguy hiểm. Vì vậy, để kết luận một hành vi, vi phạm pháp luật là hình sự, hành chính, hay dân sự, kinh tế… là vấn đề rất quan trọng. Xác định vi phạm hành chính là cơ sở để xác định trách nhiệm hành chính.
Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Việc xác định một hành vi xảy ra trên thực tế có phải là hành vi vi phạm hành chính hay không và hành vi vi phạm đó phải chịu trách nhiệm pháp lý nào, người có thẩm quyền xử phạt cần xác định đầy đủ bốn dấu hiệu pháp lý cấu thành vi phạm hành chính như sau:
+ Yếu tố chủ thể của vi phạm hành chính
Chủ thể của vi phạm hành chính là người đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Có thể là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực trách nhiệm hành chính. Nếu chủ thể là cá nhân phải là người khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 5 là người từ đủ 14 tuổi đến dưới16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi hành vi vi phạm.
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính quy định tổ chức cũng là chủ thể vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và tổ chức khác được thành lập theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Trong lĩnh vực Hải quan chủ thể vi phạm về tổ chức chủ yếu là các tổ chức kinh tế thực hiện việc nhập khẩu hàng hoá...Hoặc trong lĩnh vực đất đai: Tổ chức trong nước; tổ chức nước ngoài; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cơ sở tôn giáo. Đó là những đối tượng có hành vi vi phạm hành chính trong sử dụng đất đai hoặc trong việc thực hiện dịch vụ về đất đai.
+ Yếu tố khách quan của vi phạm hành chính:
Vi phạm hành chính có hình thức biểu hiện ra ngoài bằng hành vi. Hành vi có thể biểu hiện dưới hình thức hành động, ví dụ như hành vi khai sai dẫn đến thiếu tiền thuế...hoặc dưới hình thức không hành động như không khai thuế; không nộp hồ sơ khai thuế...Đây là những hành vi không thực hiện nghĩa vụ hoặc làm trái nghĩa vụ mà pháp luật yêu cầu phải tuân thủ. Chỉ cần có những hành động, không hành động nêu trên cũng có thể truy cứu trách nhiệm hành chính bất luận là hậu quả của hành vi đã xảy ra hay chưa.
Ví dụ: hành vi khai thác nguồn lợi sinh vật chỉ bị coi là vi phạm...khi nó được sử dụng bằng công cụ, phương tiện huỷ diệt hàng loạt.
Hành vi gây rối trật tự công cộng chỉ bị coi là vi phạm khi hành vi đó thực hiện ở những địa điểm công cộng.
Nếu hành vi vi phạm gây ra hậu quả cần xác định mối liên hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi. Ngoài ra khi xem xét mặt khách quan của vi phạm hành chính trong những vụ việc cụ thể cần xét đến một số yếu tố như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện vi phạm.
+ Yếu tố chủ quan của vi phạm hành chính:
Mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của vi phạm hành chính. Có hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở chỗ người có hành vi vi phạm nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi nhưng vẫn thực hiện hoặc để mặc cho hậu quả hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý thể hiện ở chỗ người vi phạm không biết hoặc không nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, mặc dù cần phải biết và nhận thức được nhưng cho rằng có thể ngăn ngừa được hậu quả của hành vi trái pháp luật đó.
Ví dụ: không xử phạt đối với hành vi khai đúng tên hàng hoá thực xuất khẩu, nhập khẩu nhưng khai sai mã số, thuế suất lần đầu trong lĩnh vực Hải quan.
Ví dụ: thể hiện mức độ lỗi khác nhau ở hành vi tự ý chuyển mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ... quy định Điều 7 và hành vi chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa... Điều 8 của Nghị định 102/2014/NĐ-CP.
+ Yếu tố khách thể của vi phạm hành chính:
Khách thể của vi phạm hành chính là trật tự quản lý hành chính trong tất cả các lĩnh vực được pháp luật bảo vệ. Những lợi ích này vừa là lợi ích riêng của tổ chức, cá nhân, đồng thời là lợi ích chung của toàn xã hội. Yếu tố khách thể là dấu hiệu đặc biệt quan trọng ấn định tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trái pháp luật để phân biệt giữa vi phạm hành chính với tội phạm hình sự và với các vi phạm khác.
b) Xác định hành vi vi phạm hành chính đối với trường hợp thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính
Quá trình ban hành quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt phải xem xét đối với trường hợp thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính.
Nhiều hành vi vi phạm hành chính có các hình thức biểu hiện như sau:
+ Thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính: là trường hợp cá nhân, tổ chức không phải thực hiện một hành vi vi phạm mà thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính và các hành vi vi phạm hành chính đó chưa bị xử lý, chưa hết thời hiệu xử phạt.
Ví dụ: Vừa có hành vi lấn chiếm đất; vừa có hành vi xây dựng sai so với giấy phép.
+ Vi phạm nhiều lần: là trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính mà trước đó đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính này nhưng chưa bị xử lý và chưa hết thời hiệu xử lý. Quy định này được hiểu một người thực hiện nhiều lần về một hành vi (hành vi vi phạm hành chính được lặp lại), hành vi này được quy định tại cùng một khoản của một điều luật và bị xử lý hành chính cùng một lúc.
Ví dụ: Nhiều lần vi phạm về hành vi xây dựng sai giấy phép.
+ Tái phạm: Là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định này mà lại thực hiện hành vi vi phạm đã bị xử lý.
Ví dụ: Tháng 10/02/2013, Ông A bị xử phạt về hành vi chiếm đất, sau khi đã có quyết định xử phạt chưa chấp hành xong quyết định xử phạt, thì ông A tiếp tục thực hiện hành vi chiếm đất, ông A đã tái phạm.
Xem xét nhiều hành vi vi phạm để trên cơ sở đó phân biệt giữa việc quyết đinh xử phạt đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính, hay chỉ áp dụng vi phạm nhiều lần, tái phạm là tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 10 của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
c) Phân biệt hành vi vi phạm hành chính với tội phạm hình sự
Để phân biệt giữa tội phạm hình sự với hành vi phạm hành chính, một trong tiêu chí đánh giá đầu tiên là mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Trong trường hợp một khách thể bị nhiều hành vi xâm hại thì hậu qủa trực tiếp của hành vi hoặc hành vi đó đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành chính hay chưa lại là tiêu chí để phân biệt giữa tội phạm với vi phạm hành chính.
Như vậy, để chứng minh có hay không hành vi phạm hành chính đã được thực hiện trên thực tế, người có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh có hành vi vi phạm hành chính.
Việc chứng minh cần phải thực hiện thu thập và xử lý thông tin đảm bảo tính khách quan, chính xác. Trên cơ sở các tài liệu thu thập như: biên bản vi phạm; biên bản xác minh; biên bản xác định giá trị tang vật vi phạm; kết luận giám định; văn bản giải trình hoặc các tài liệu thu được bằng các biện pháp khác, người có thẩm quyền xử phạt phải kiểm tra, phân tích, đánh giá các dấu hiệu pháp lý của hành vi vi phạm cụ thể đã được thực hiện, với các dấu hiệu cấu thành vi phạm hành chính được pháp luật xử lý vi phạm hành chính quy định để kết luận hành vi vi phạm hành chính đó là hành vi gì được quy định tương ứng với điều luật nào của Nghị định xử phạt trong từng lĩnh vực.
Xác định đúng hành vi vi phạm hành chính có ý nghĩa pháp lý quan trọng làm cơ sở để người có thẩm quyền đưa ra quyết định xử phạt đúng đắn. Đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc công bằng, nguyên tắc pháp chế trong xử lý vi phạm hành chính.
2.1.2. Nhận thức đúng nội dung các quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và lựa chọn đúng quy phạm pháp luật tương ứng, chính xác với hành vi vi phạm được thực hiện trên thực tế.
Các hành vi vi phạm hành chính quy định trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của từng lĩnh vực quản lý nhà nước được mô tả chi tiết trong các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, việc quy định các hành vi vi phạm trong luật chỉ mang tính khái quát, đặc trưng mà chưa thể phản ánh đầy đủ tính đa dạng của thực tế cuộc sống. Chính vì vậy, khi áp dụng pháp luật vào trường hợp thực tế cụ thể đang xem xét đòi hỏi sự nhận thức đúng đắn chính xác nội dung của quy phạm pháp luật.
Muốn xác định hành vi vi phạm hành chính nào đã được thực hiện, người có thẩm quyền xử phạt phải tiến hành so sánh đối chiếu các tình tiết thực tế của vụ việc với các dấu hiệu được mô tả trong quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính, từ đó đánh giá hành vi vi phạm trên thực tế sẽ được áp dụng điểm, khoản của điều luật trong Nghị định xử phạt.
Trong nhiều trường hợp người có thẩm quyền xử phạt đã đánh giá hành vi vi phạm thực tế không đúng về mặt pháp lý nên đã lựa chọn sai quy phạm pháp luật áp dụng.
Ví dụ: hành vi trốn thuế vẫn có trường hợp nhầm lẫn giữa tội phạm hình sự và vi phạm hành chính.
2.1.3. Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
a) Nguyên tắc áp dụng các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả
Hai hình thức xử phạt cảnh cáo, phạt tiền luôn được quy định là hình thức xử phạt chính trong nhiều Nghị định xử phạt. Đối với các hình thức xử phạt còn lại có thể quy định vừa là hình thức xử phạt chính vừa là hình thức xử phạt bổ sung. Và việc quy định này do Chính phủ quy định cụ thể trong mỗi Nghị định xử phạt của từng lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Khi tiến hành xử phạt, về nguyên tắc chỉ được áp dụng một hình thức xử phạt chính; có thể áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính với nhiều hình thức xử phạt bổ sung và nhiều biện pháp khắc phục hậu quả. Các hình thức xử phạt đã được quy định tương xứng với từng hành vi vi phạm cụ thể của Nghị định xử phạt. Người có thẩm quyền xử phạt chỉ được lựa chọn các hình thức xử phạt và mức tiền phạt phù hợp với hành vi vi phạm hành chính đã được ấn định trong Nghị định xử phạt.
Đối với cùng một hành vi vi phạm hành chính thì mức tiền phạt của tổ chức bằng 02 lần mức tiền phạt đối với cá nhân.
Việc áp dụng các hình thức xử phạt phải đảm bảo nguyên tắc: Cá thể hoá hành vi vi phạm; nguyên tắc công bằng; nguyên tắc pháp chế.
Ví dụ: Điểm a, khoản 1, Điều 8 Nghị định 102/2014/NĐ-CP vừa quy định hình thức xử phạt cảnh cáo; vừa quy định hình thức xử phạt tiền thì khi quyết định hình thức xử phạt cảnh cáo hay phạt tiền, người có thẩm quyền cần cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hành chính để quyết định. Hành vi vi phạm hành chính bị xử phạt được quy định phải gắn với chế tài xử phạt tương xứng.
Ví dụ: Hành vi lấn chiếm đất quy định tại Điều 10 Nghị định 102/2014/NĐ-CP chỉ quy định hình thức xử phạt chính là phạt tiền và có hai biện pháp khắc phục hậu quả. Vì vậy, khi áp dụng hình thức xử phạt, người có thẩm quyền chỉ được áp dụng mức tiền phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đã được quy định tại Điều 10.
b) Quyết định các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với trường hợp nhiều hành vi vi phạm hành chính.
Cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính, khi xử phạt phải áp dụng hình thức, mức xử phạt của từng hành vi cụ thể rõ ràng. Lưu ý không tổng hợp mức tiền phạt chung của tất cả các hành vi trong quyết định xử phạt.
Đối với trường hợp vi phạm nhiều lần, tái phạm phải áp dụng là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hành chính để xác định mức tiền phạt trong khung phạt.
Quyết định các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả là một giai đoạn rất quan trọng trong quá trình ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Đây là giai đoạn người có thẩm quyền xử phạt chính thức xác nhận về mặt pháp lý một người có hành vi vi phạm hành chính và người đó phải bị áp dụng các chế tài hành chính. Quyết định đúng, chính xác hình thức xử phạt khi ban hành quyết định xử phạt là tiền đề, điều kiện cho việc thực hiện đúng mục đích của các hình thức xử phạt.
c) Nội dung quyết định xử phạt
+ Việc ban hành quyết định xử phạt phải đảm bảo về nội dung và hình thức quy định tại Điều 68 Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định xử phạt trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Hình thức là một quyết định bằng văn bản.
+ Ban hành một quyết định xử phạt: Trường hợp một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính mà bị xử phạt trong cùng một lần thì chỉ ra 01 quyết định xử phạt trong đó quyết định hình thức, mức tiền phạt đối với từng hành vi vi phạm hành chính (Điều 67).
+ Ban hành nhiều quyết định xử phạt: Trong trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình thức, mức tiền xử phạt đối với từng cá nhân, tổ chức. Hoặc nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm của từng cá nhân, tổ chức.
+ Nếu ban hành một quyết định xử phạt vi phạm hành chính chung đối với nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm hoặc nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm thì nội dung hành vi vi phạm, hình thức mức xử phạt đối với từng cá nhân tổ chức phải xác định cụ thể, rõ ràng.
Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Do vậy, trước khi ký quyết định để ban hành, người có thẩm quyền xử phạt cần phải tự mình nghiên cứu nội dung vụ việc, lắng nghe các ý kiến cấp dưới, trong trường hợp là vụ việc phức tạp có thể tham vấn các cơ quan chuyên môn.
Trước khi phát hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính cần kiểm tra lại cả về hình thức và nội dung của văn bản.
d) Thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được quyết định xử phạt, cá nhân, tổ chức bị xử phạt phải nộp tiền phạt và được nhận biên lai thu tiền phạt. Trường hợp quyết định xử phạt có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn mười (10) ngày thì thực hiện theo thời gian đó.
+ Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định xử phạt người có thẩm quyền xử phạt phải giao quyết định xử phạt đến đối tượng áp dụng và các bên có liên quan theo quy định (Điều 70 và Điều 71 Luật Xử lý vi phạm hành chính).
Quyết định xử phạt phạm hành chính có thể bị công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong các trường hợp quy định tại Điều 72 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2.2. Hiệu lực thi hành của quyết định xử lý vi phạm hành chính
Quyết định xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính.
Trường hợp cá nhân, tổ chức khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử lý vi phạm hành chính thì quyết định đó vẫn phải được thi hành, trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ thi hành theo quy định tại Khoản 3, Điều 15 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Để thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính, cơ quan ban hành quyết định phải giao quyết định theo thủ tục pháp luật quy định và công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính đối với các trường hợp quy định tại Điều 72, Luật Xử lý vi phạm hành chính.
2.3. Đính chính, sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ quyết định xử lý vi phạm hành chính
Các yêu cầu hợp pháp của quyết định xử lý vi phạm hành chính sẽ đảm bảo phù hợp nguyên tắc pháp quyền và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân, nhưng không được cản trở đến việc thực hiện thẩm quyền hành chính của các cơ quan hành chính. Vì vậy, pháp luật hành chính cho phép người có thẩm quyền ban hành quyết định xử lý vi phạm hành chính được quyền đính chính; sửa đổi, bổ sung; huỷ bỏ quyết định xử lý vi phạm hành chính do mình ban hành. Quyền này có thể được thực hiện trong quá trình kiểm tra hành chính (khiếu nại), hoặc qua hoạt động giải quyết khiếu kiện tại Tòa án. Nếu các khiếm khuyết và lỗi đã được “sữa chữa” thì các quyết định xử lý vi phạm hành chính được xem là hợp pháp.
a) Đính chính quyết định xử lý vi phạm hành chính (Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP được bổ sung bởi khoản 8 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)
b) Sửa đổi, bổ sung quyết định xử lý vi phạm hành chính (Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP được bổ sung bởi khoản 8 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP):
c) Hủy bỏ quyết định xử lý vi phạm hành chính (Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP được bổ sung bởi khoản 9 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)
Lưu ý: Trong vi phạm hành chính, quyết định xử lý vi phạm hành chính đang trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện thì không được thu hồi.
d) Ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính (Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP được bổ sung bởi khoản 9 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)
đ) Thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính (Điều 6c Nghị định số 81/2013/NĐ-CP được bổ sung bởi khoản 10 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)
e) Hiệu lực, thời hạn, thời hiệu thi hành của quyết định sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính, văn bản đính chính quyết định về xử lý vi phạm hành chính (Điều 6d Nghị định số 81/2013/NĐ-CP được bổ sung bởi khoản 11 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)
2.4. Khiếu nại, khiếu kiện các quyết định xử lý vi phạm hành chính
Các đối tượng bị áp dụng hoặc có liên quan đến quyết định xử lý vi phạm hành chính đều có thể yêu cầu người có thẩm quyền xử phạt xem xét lại quyết định bằng cách khiếu nại. Thủ trưởng cơ quan hành chính ban hành quyết định bị khiếu nại hoặc thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thủ tục quy định của pháp luật. Hoặc họ cũng có quyền lựa chọn phương thức khởi kiện thẳng đến Tòa Hành chính. Thủ tục khởi kiện vụ án hành chính được thực hiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Tòa án có thẩm quyền xem xét đánh giá tính hợp pháp của các Quyết định xử lý vi phạm hành chính để bác yêu cầu khởi kiện hay chấp nhận yêu cầu và hủy bỏ quyết định xử lý vi phạm hành chính của cơ quan hành chính.
Quyết định xử lý vi phạm hành chính phải giải thích và ghi rõ quyền này trong nội dung của quyết định xử lý vi phạm hành chính để người bị áp dụng quyết định biết và thực hiện quyền của mình.
Ví dụ: Theo quy định thì trong nội dung Quyết định tịch thu tang vật vi phạm hành chính phải nêu rõ về quyền và thời hạn khiếu nại, khiếu kiện theo quy định của pháp luật, nhưng khi ban hành 01 Quyết định tịch thu cụ thể trong nội dung của quyết định lại không ghi rõ và không được giao nhận hợp lệ cho người vi phạm thì lỗi này của cơ quan hành chính không được tính vào thời hiệu khi có khiếu nại, khiếu kiện.
Tác giả bài viết: Nguyễn Thùy Dương