Một số ý kiến về quy định chi thù lao cho hòa giải viên ở cơ sở
Phòng PBGDPL
2022-08-01T23:18:59-04:00
2022-08-01T23:18:59-04:00
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/news/hoat-dong-pbgdpl-cap-tinh/mot-so-y-kien-ve-quy-dinh-chi-thu-lao-cho-hoa-giai-vien-o-co-so-325.html
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/uploads/news/2022_08/ky-nang-co-ban-cua-hoa-giai-vien-trong-giai-quyet-tranh-chap-thuong-mai-422744.jpg
Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên - Cổng thông tin điện tử Phổ biến giáo dục pháp luật
https://pbgdplthainguyen.gov.vn/uploads/botuphap.png
Hòa giải ở cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội tự nguyện, tự quản ở cộng đồng và các hòa giải viên tham gia hòa giải hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, trách nhiệm với cộng đồng và không có danh lợi. Khi tham gia công tác hòa giải, hòa giải viên thường gặp nhiều áp lực khác nhau, thường phải bỏ thời gian nghỉ ngơi cá nhân và làm thêm giờ để làm công tác hòa giải, loại trừ những nguy cơ tiềm ẩn, giải quyết nỗi lo, giải quyết tranh chấp cho người dân, góp phần duy trì sự hài hòa và ổn định của xã hội.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số người không hiểu công việc này, một bộ phận hòa giải viên tham gia công tác hòa giải ở cơ sở mà không có sự thấu hiểu, chia sẻ, ủng hộ từ phía gia đình... nên để làm tốt công tác hòa giải không phải là điều dễ dàng; đòi hỏi hòa giải viên phải: (i) có cảm xúc chân thật. Với tư cách là hòa giải viên, khi các bên tranh chấp đề nghị hòa giải, họ phải đón tiếp nồng hậu và phục vụ nhiệt tình, chủ động tìm hiểu sự việc mà hai bên báo cáo và chân thành lắng nghe ý kiến của các bên. Chỉ có thể hiện tình cảm chân thành thì lòng tin của quần chúng đối với hòa giải viên mới được củng cố và quần chúng mới có thể mở lòng chia sẻ. Sự thật chính là chìa khóa để mở ra cánh cửa hòa giải; (ii) Hai là hòa giải theo quy định của pháp luật. Khác với trước đây, bây giờ nhiều xung đột, tranh chấp liên quan đến nhiều luật liên quan, mọi người đều có ý thức pháp luật và bảo vệ quyền lợi, nên rất khó giải quyết và chỉ nhiệt tình hòa giải thôi là chưa đủ. Hòa giải viên cần chú trọng nghiên cứu luật pháp, chính sách liên quan mật thiết đến sản xuất và đời sống của người dân ở cơ sở, đưa ra những ý kiến, đề xuất phù hợp với chính sách pháp luật thì mới thuyết phục được các bên. Trong quá trình hòa giải, hòa giải viên phải điều tra và hiểu đầy đủ nguyên nhân của tranh chấp, nhu cầu và ý tưởng của cả hai bên và “kê đơn thuốc” phù hợp; phải công bằng và chính đáng, dựa trên sự kiện và luật pháp là tiêu chí, và không thiên vị. Chỉ bằng cách này, hòa giải viên mới có thể tạo dựng được uy tín trong nhân dân, giải quyết các tranh chấp và ngăn ngừa các tranh chấp xảy ra; và (iii) phải kiên nhẫn. Quá trình hòa giải xung đột và tranh chấp là một quá trình thuyết phục và hướng dẫn tích cực. Trong quá trình hòa giải cụ thể, các bên sẽ không nhất thiết chấp nhận ý kiến và đề xuất của hòa giải viên ngay từ đầu, và cần phải có một quá trình trao đổi và thương lượng lặp đi lặp lại. Nếu hòa giải viên thiếu kiên nhẫn, việc giải quyết tranh chấp có thể không diễn ra.
Nói chung, mâu thuẫn và tranh chấp không quá khác nhau, có những chuyện vụn vặt xảy ra trong gia đình, trong quan hệ ông bà, cha mẹ con cái, cũng như tranh chấp đất đai, tranh chấp lao động, tranh chấp hợp đồng, thương tích cá nhân và các vấn đề lớn khác liên quan đến lợi ích sống còn của người dân v.v.. chỉ cần những người làm công tác hòa giải luôn coi những việc nhỏ nhặt của người dân là vấn đề lớn của mình và suy nghĩ về vấn đề đó từ góc độ của người dân, thì hòa giải viên mới thực sự là một hòa giải viên tốt, được nhân dân hoan nghênh và yêu mến.
Và thực tế cũng cho thấy, nếu hoạt động của các hòa giải viên là tự nguyện và cơ bản dựa trên sự nhiệt tình cá nhân của họ thì sự nhiệt tình đó cũng rất cần được “hỗ trợ và động viên” về vật chất, ở mức độ nhất định, để duy trì.
Nhằm giúp hòa giải viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, khắc phục hạn chế trong hoạt động hòa giải, tránh quan niệm về hòa giải viên là “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” đã làm ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của một bộ phận hòa giải viên, bên cạnh việc quy định bổ sung quyền, nghĩa vụ của hòa giải viên như được bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ và kỹ năng hòa giải; tham gia sinh hoạt, thảo luận và quyết định nội dung, phương thức hoạt động của tổ hòa giải... Luật hòa giải ở cơ sở năm 2013 đã quy định rõ quyền “được hưởng thù lao theo vụ, việc khi thực hiện hòa giải” của hòa giải viên. Tiếp đến, Nghị định số 15/2014/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT/BTC-BTP đã quy định chi tiết về nội dung, mức chi cũng như trình tự, thủ tục thực hiện; cụ thể như sau:
1. Về điều kiện hưởng thù lao của hòa giải viên
Hòa giải viên được hưởng thù lao cả trong trường hợp hòa giải thành và hòa giải không thành và để được hỗ trợ thù lao, phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, vụ, việc được tiến hành hòa giải và đã kết thúc theo quy định tại Điều 23 của Luật Hòa giải ở cơ sở.
Thứ hai, hòa giải viên không vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 10 của Luật Hòa giải ở cơ sở.
2. Mức chi
Chi thù lao cho hòa giải viên (đối với các hòa giải viên trực tiếp tham gia vụ, việc hòa giải): mức tối đa 200.000 đồng/vụ, việc/tổ hòa giải.
3. Thủ tục thanh toán thù lao cho hòa giải viên
- Tổ trưởng tổ hòa giải lập hồ sơ đề nghị thanh toán thù lao cho hòa giải viên, bao gồm: Giấy đề nghị thanh toán thù lao của hòa giải viên có ghi rõ họ, tên, địa chỉ của hòa giải viên; tên, địa chỉ tổ hòa giải; số tiền đề nghị thanh toán; nội dung thanh toán (có danh sách các vụ, việc trong trường hợp đề nghị thanh toán thù lao cho nhiều vụ, việc); chữ ký của hòa giải viên; chữ ký xác nhận của tổ trưởng tổ hòa giải và xuất trình Sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở để đối chiếu khi cần thiết.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định và trả thù lao cho hòa giải viên thông qua tổ hòa giải; trường hợp quyết định không thanh toán cho hòa giải viên thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
- Tổ hòa giải thực hiện trả thù lao cho hòa giải viên theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày nhận được thù lao.
Thực hiện Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30/7/2014 của Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở, tính đến nay, cả nước đã có 58/63 tỉnh, thành phố ban hành Nghị quyết (HĐND), Quyết định (UBND) quy định về kinh phí hỗ trợ hoạt động của tổ hòa giải và mức chi thù lao theo vụ, việc cho hòa giải viên tại địa phương. Đối với các tỉnh, thành phố không ban hành văn bản riêng thì thực hiện theo Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn một số tỉnh, thành phố chưa thực hiện việc chi thù lao theo vụ, việc cho hòa giải viên trên địa bàn toàn tỉnh theo đúng quy định. Thậm chí ngay trên cùng địa bàn tỉnh, việc chi thù lao vụ việc hòa giải cho hòa giải viên cũng không đồng đều, thống nhất (xã bố trí kinh phí thì chi 200.000 đồng/ vụ, việc; xã không bố trí được kinh phí thì không chi hoặc chi ở mức thấp hơn khoảng 50.000 đồng/ vụ, việc; hay có địa phương thì thực hiện quy định chi thù lao vụ việc hòa giải thành là 200.000 đồng, vụ việc hòa giải không thành là 150.000 đồng ... trong khi thực tế có những vụ việc hòa giải không thành hòa giải viên phải mát nhiều công sức, trí tuệ hơn rất nhiều so với vụ việc hòa giải thành).
Bên cạnh đó, pháp luật chỉ quy định một mức chung tối đa 200.000 đồng/vụ, việc không phân biệt mức độ, tính chất, quy mô phức tạp của mâu thuẫn, tranh chấp trong khi thực tế có những vụ, việc hòa giải viên phải mất rất nhiều công sức, chi phí đi lại để gặp gỡ các bên tranh chấp... Vậy nên, với việc quy định mức ”tối đa“ này, không chỉ khó “hỗ trợ và động viên“ ở mức độ nhất định, để duy trì, mà còn tạo rào cản cho một số địa phương có điều kiện về nguồn lực kinh phí muốn tăng mức chi thù lao vụ, việc hòa giải nhằm hỗ trợ, khuyến khích, động viên hòa giải viên tích cực tham gia công tác hòa giải ở cơ sở.
Theo đó, cần thiết có những nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tiễn thi hành tại các địa phương, tạo sự linh hoạt, chủ động cho địa phương trong quá trình triển khai thực hiện và đặc biệt là để huy động sự nhiệt tình và sự chủ động của hòa giải viên ở cơ sở và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hòa giải. Theo quan điểm cá nhân, nên nghiên cứu sửa đổi quy định về chi thù lao vụ, việc hòa giải theo hướng:
- Một là, vẫn giữ nguyên quy định chi thù lao vụ, việc hòa giải không phân biệt vụ, việc hòa giải thành và không hòa giải thành.
- Hai là, không quy định mức tối đa thù lao như trong Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP mà quy định “khung mức thù lao” từ “XXX đồng đến YYY đồng”, căn cứ vào số lượng phiên hòa giải và tính chất phức tạp của vụ việc hòa giải. Có thể tham khảo cách quy định thù lao hòa giải viên sau:
(i) Thù lao hòa giải viên khi thực hiện hòa giải theo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án:
- Hòa giải viên được trả thù lao theo từng vụ việc sau khi đã tiến hành phiên hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
- Mức thù lao của Hòa giải viên:
+ Đối với vụ việc chấm dứt hòa giải, đối thoại do hòa giải, đối thoại thành: Hòa giải viên được hưởng mức thù lao cụ thể trong khung mức thù lao từ 1.000.000 đồng/01 vụ việc đến tối đa 1.500.000 đồng/01 vụ việc;
+ Đối với vụ việc chấm dứt hòa giải, đối thoại do người nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu rút đơn khởi kiện; đơn yêu cầu: Hòa giải viên được hưởng mức thù lao cụ thể trong khung mức thù lao từ 500.000 đồng/01 vụ việc đến dưới 1.000.000 đồng/01 vụ việc;
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn các Tòa án nhân dân chi trả mức thù lao cụ thể căn cứ vào số lượng phiên hòa giải, đối thoại và tính chất phức tạp của vụ việc hòa giải, đối thoại.
+ Đối với vụ việc chấm dứt hòa giải, đối thoại do các bên không đạt được thỏa thuận, thống nhất về toàn bộ nội dung vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính hoặc chỉ thỏa thuận, thống nhất được một phần vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính nhưng phần đó có liên quan đến những phần khác của vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính; một bên hoặc các bên không đồng ý tiếp tục hòa giải, đối thoại hoặc vắng mặt sau 02 lần được thông báo hợp lệ về việc hòa giải, đối thoại; trong quá trình hòa giải, đối thoại phát hiện vụ việc thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải quy định tại Điều 19 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; hoặc do một trong các bên yêu cầu áp dụng biện pháp Khẩn cấp tạm thời theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính trong quá trình hòa giải, đối thoại: Hòa giải viên được hưởng mức thù lao 500.000/01 vụ việc.
(ii) hoặc kinh nghiệm về thực hiện trợ cấp vụ việc cho hòa giải viên tại huyện Hoắc Khấu, tỉnh An Huy, Trung Quốc. Theo đó, trợ cấp được thực hiện cho một vụ, nếu nhiều hòa giải viên nhân dân cùng hòa giải một vụ thì tiêu chuẩn trợ cấp được tính dựa trên một vụ. Tiêu chuẩn trợ cấp được xác định theo chất lượng, mức độ khó khăn, tác động xã hội và quy cách của hồ sơ hòa giải. Cụ thể:
(1) Đối với các vụ việc tranh chấp đơn giản mà hòa giải thành, đạt được thỏa thuận bằng miệng và hoàn thành "Phiếu đăng ký hòa giải nhân dân bằng miệng" hoặc các vụ việc chỉ có "Thỏa thuận hòa giải nhân dân" về nguyên tắc không được trợ cấp.
(2) Hòa giải thành công các xung đột và tranh chấp xã hội nói chung, hồ sơ, tài liệu hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn và trợ cấp 200 nhân dân tệ cho mỗi vụ việc (bằng khoảng 721.503,85 VNĐ).
(3) Hòa giải thành công các xung đột và tranh chấp xã hội khó khăn, hồ sơ, tài liệu hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn và trợ cấp 300 nhân dân tệ cho mỗi vụ việc.
(4) Hòa giải thành công các xung đột và tranh chấp xã hội lớn, hồ sơ, tài liệu hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn và trợ cấp 400 nhân dân tệ cho mỗi vụ việc. Tranh chấp liên quan đến cái chết bất thường của 1 người sẽ được trợ cấp 600 nhân dân tệ cho mỗi trường hợp; tranh chấp liên quan đến cái chết bất thường của 2 người hoặc bị thương nặng của 3 người sẽ được trợ cấp 800 nhân dân tệ cho mỗi trường hợp.
(5) Hòa giải thành công các xung đột và tranh chấp xã hội đặc biệt lớn mà không liên quan đến thương vong sẽ được trợ cấp 1.000 nhân dân tệ cho mỗi trường hợp; đối với trường hợp tử vong bất thường, trợ cấp 2.000 nhân dân tệ cho mỗi trường hợp.
Đối với các công việc tồn đọng trên một năm và dưới ba năm, với hồ sơ hoàn chỉnh và quy trình thiết lập hồ sơ tài liệu đúng tiêu chuẩn, sẽ được trợ cấp 1.000 nhân dân tệ mỗi vụ việc. Một công việc tồn đọng hơn ba năm đã được giám sát bởi bộ phận văn thư và kiểm tra ở cấp tỉnh, với tài liệu hoàn chỉnh, quy trình thiết lập hồ sơ tài liệu đúng tiêu chuẩn và trợ cấp 2.000 nhân dân tệ cho mỗi vụ việc.
(6) Đối với các tranh chấp thuộc loại (3), (4) và (5) nêu trên, Ủy ban hòa giải nhân dân đã tiến hành hòa giải trong ba tháng, và tranh chấp đã quá ba lần hòa giải mà vẫn hòa giải không thành. Vụ việc bị chấm dứt hòa giải, cả hai bên được hướng dẫn bảo vệ quyền lợi của mình theo các kênh thông thường và hợp pháp, tiêu chuẩn trợ cấp là 200 nhân dân tệ/vụ.
Về các tiêu chuẩn để xác định định mức trường hợp cụ thể:
(1) Hồ sơ hòa giải chủ yếu bao gồm: hồ sơ (bìa, mục lục, bìa sau), đơn hòa giải, đơn đăng ký hòa giải thụ lý tranh chấp, biên bản điều tra, xác định các bên và các tài liệu chứng cứ liên quan, thông báo hòa giải, biên bản điều tra và hòa giải thỏa thuận (Thư chấm dứt hòa giải), hồ sơ chuyến thăm trở lại, tài liệu đính kèm và mô tả hồ sơ;
(2) Các bên được yêu cầu có đầy đủ thông tin, hồ sơ điều tra được chuẩn hóa, dữ kiện rõ ràng, đủ bằng chứng liên quan và thu thập đầy đủ;
(3) Thỏa thuận hòa giải yêu cầu các quyền và nghĩa vụ cụ thể, thời gian và địa điểm thực hiện rõ ràng;
(4) Biên bản trở lại yêu cầu ghi lại việc thực hiện thỏa thuận và ý kiến của các bên về hòa giải tranh chấp;
(5) Các luật và quy định được áp dụng cho vụ việc hòa giải là đúng đắn và không vi phạm trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục;
(6) Chữ ký, dấu vân tay và quy cách con dấu;
(7) Các tài liệu của hồ sơ hòa giải phải được đóng theo thứ tự của các tài liệu nêu trên.
Trên đây là một số ý kiến về quy định hiện hành về chi thù lao hòa giải viên ở cơ sở, tác giả bài viết rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ phía bạn đọc./.
Luật được Quốc hội VIệt Nam thông qua ngày 16/6/2020.
Xung đột và tranh chấp xã hội chung được xác định gồm các trường hợp sau:
+ Vụ việc tương đối đơn giản, liên quan đến số lượng từ 5 người trở xuống (gồm 5 người) hoặc liên quan đến tranh chấp 5-10 nhân dân tệ (không bao gồm 10 nhân dân tệ);
+ Tranh chấp chung của khu phố;
+ Tranh chấp chung về hôn nhân và gia đình;
+ Các tranh chấp về xâm phạm chung;
+ Tranh chấp chung về sản xuất kinh doanh;
+ Tranh chấp lao động có tình tiết rõ ràng, dễ dàng hòa giải.
Thuộc một trong những trường hợp sau đây có thể được coi là một tranh chấp mâu thuẫn xã hội khó giải quyết:
+ Số lượng người liên quan là 6 - 10 người hoặc số tiền liên quan là 100.000 - 400.000 nhân dân tệ (chưa bao gồm 400.000 nhân dân tệ);
+ Tranh chấp trong các lĩnh vực chính như quản lý đô thị, tai nạn nghề nghiệp, điều trị y tế, an toàn sản xuất, lao động và vốn, thu hồi đất, tai nạn giao thông đường bộ, giáo dục, quản lý thị trường, dân sự, nông nghiệp, bảo vệ môi trường;
+ Tranh chấp về thay đổi quyền sở hữu;
+ Tranh chấp do các phòng ban cấp quận có liên quan phân công;
+ Tranh chấp do tòa án nhân dân quận ủy thác hòa giải;
+ Tranh chấp mà Ban hòa giải nhân dân thôn hòa giải nhiều lần không được thì làm đơn yêu cầu Ban hòa giải nhân dân thị trấn hòa giải.
Trong bất kỳ trường hợp nào sau đây, có thể được xác định là một xung đột và tranh chấp xã hội lớn:
+ Liên quan đến số lượng từ 11-30 người trở lên (không bao gồm 30 người) hoặc liên quan đến 40-100 triệu nhân dân tệ (không bao gồm 100 triệu nhân dân tệ) đang tranh chấp;
+ Những mâu thuẫn, tranh chấp có ảnh hưởng lớn đến ổn định xã hội;
+ Xung đột và tranh chấp nhóm đột ngột;
+ Tranh chấp về thương vong do tai nạn lớn.
Trong bất kỳ trường hợp nào sau đây, có thể được xác định là một tranh chấp xung đột xã hội đặc biệt nghiêm trọng:
+ Tranh chấp về thương vong do tai nạn rất nghiêm trọng;
+ Số liên quan đến 30 người trở lên hoặc liên quan đến 100 triệu nhân dân tệ tranh chấp;
+ Tranh chấp liên quan đến các tác động xã hội lớn giữa các quận, huyện, thị xã và đơn vị;
+ Có nhiều tranh chấp khiếu kiện liên quan đến việc khởi kiện do có ý kiến khác nhau về cơ quan công quyền, viện kiểm sát và cơ quan hành pháp;
+ Các phòng ban liên quan ở cấp quận hoặc huyện đã nhiều lần không hòa giải được hoặc được giao nhiệm vụ hòa giải các tranh chấp trong hơn một năm mà không có kết quả.
Nguồn pbgdpl.moj.gov.vn
Tác giả bài viết: Phòng PBGDPL