Ngày 10/02/2022, qua tin báo của quần chúng nhân dân. Ủy ban nhân dân xã X nhận dược thông tin ông A có hành vi đổ đất san lấp khu ruộng trồng lúa nước tiếp giáp với đường đi chung của cả xóm.
Ủy ban nhân dân xã đã cử công chức Địa chính xã tiến hành kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông A với hành vi sử dụng đất trồng lúa vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra quyết định xử phạt.
Tuy nhiên, ngay sau khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông A, thì mới phát hiện một phần diện tích đất gần ngã 3 đường rẽ vào nhà ông A, ông A đã dựng quán bán hàng. Phần đất này liền kề với thửa ruộng xảy ra vi phạm. Kiểm tra, đối chiếu với hồ sơ quản lý đất đai cho thấy, phần đất này nằm trong quy hoạch mở rộng đường giao thông liên thôn và chưa được sử dụng, trên bản đồ và hồ sơ quản lý thể hiện đây là phần đất hành lang giao thông liên xã, hiện đang thuộc thẩm quyền quản lý của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Vì vậy, quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành thiếu hành vi vi phạm chiếm đất đối với phần diện tích đất vi phạm này.
Trường hợp này, người có thẩm quyền xử phạt phải thực hiện như thế nào?
Trong trường hợp trên, việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính khi chưa kiểm tra kỹ các tình tiết của vụ việc, dẫn đến việc xác định các loại đất bị xâm phạm chưa đầy đủ và chính xác. Đối với diện tích đất trồng lúa bị hủy hoại và sử dụng vào mục đích khác, hành vi này sẽ bị xử lý theo các quy định về đất đai. Đối với hành vi chiếm đất hành lang giao thông phải bị xử phạt theo các quy định về Luật Giao thông đường bộ.
Do đó, quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã X là chưa đầy đủ và thiếu sót.
Theo khoản 3 Điều 18 Luật Xử lý VPHC (sửa đổi, bổ sung năm 2020), thẩm quyền hủy bỏ, ban hành quyết định mới trong xử phạt VPHC quy định như sau: Chủ tịch UBND các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị của người có thẩm quyền xử lý VPHC có trách nhiệm phát hiện quyết định về xử lý VPHC do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót và kịp thời đính chính, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới theo thẩm quyền.
Tùy thuộc vào tính chất, mức độ sai sót, người đã ban hành quyết định về xử lý VPHC phải hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có sai sót về nội dung làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định;
- Quyết định giải quyết khiếu nại của người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại được ban hành dẫn đến việc thay đổi căn cứ, nội dung của quyết định về xử lý VPHC.)
Thời hạn đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định xử phạt VPHC là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền ban hành quyết định có sai sót. (Nghị định số 118/2021/NĐ-CP)
Từ tình huống trên có thể nhận thấy một số kinh nghiệm trong việc xác định hành vi vi phạm hành chính. Ngay khi phát hiện dấu hiệu vi phạm, trong quá trình tiến hành xử lý vi phạm theo thủ tục hành chính, thậm chí khi đã có các quyết định xử lý nhưng cần phải xem xét, đánh giá lại sự việc trong quá trình giải quyết khiếu nại do có khiếu nại hoặc tham gia tranh tụng hành chính do bị kiện…
Khi tiếp nhận vụ việc vi phạm hành chính, người có thẩm quyền cần chú ý thực hiện một số bước nghiệp vụ cụ thể để đảm bảo việc xử lý vi phạm hành chính đúng trình tự, thủ tục, xác định đúng hành vi vi phạm và chế tài được áp dụng.
Bước 1: Phân tích, đánh giá các tình tiết, hoàn cảnh, điều kiện của sự việc thực tế đã xảy ra
Người đang thi hành công vụ, cơ quan hành chính có thẩm quyền khi nhận được thông tin hoặc tự phát hiện thấy hành vi của cá nhân, tổ chức mà nghi ngờ là vi phạm cần đánh giá hành vi thực tế do cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi gì? diễn biến như thế nào? trong lĩnh vực nào?...
Trong tình huống trên, thông tin về hành vi chiếm đất ban đầu được quần chúng nhân dân phát giác, tuy nhiên thông tin chưa đầy đủ, công chức chuyên môn cần phải tiến hành kiểm tra xác minh đầy đủ diện tích vi phạm, loại đất vi phạm, các thửa đất xảy ra vi phạm.
Để xác định chính xác các hành vi vi phạm của ông A trong vụ việc trên cần phải xem xét đầy đủ, tổng thể các tình tiết của vụ việc, như:
Hành vi bị coi là hành vi sử dụng đất sai mục đích đã được thực hiện như thế nào, vào thời điểm nào, diễn biến của hành vi đó như thế nào? (đang diễn ra hay đã chấm dứt).
- Phạm vi, diện tích vi phạm liên quan đến các lô, thửa đất nào.
- Trong trường hợp này, việc xác định chính xác các loại đất bị xâm phạm sẽ dẫn đến việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp đối với các hành vi.
Bước 2: Lựa chọn và áp dụng văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật để đánh giá hành vi vi phạm.
Để có cơ sở pháp lý xác định hành vi vi phạm, cần tìm văn bản pháp luật, tìm quy định pháp luật tương ứng mô tả hành vi vi phạm. Các văn bản pháp luật áp dụng bao gồm văn bản quy định chung cho tất cả các trường hợp xử lý vi phạm hành chính và các văn bản vi phạm riêng cho từng lĩnh vực cụ thể. Trên cơ sở dự đoán hành vi đang có dấu hiệu vi phạm thuộc lĩnh vực nào để chọn Nghị định và văn bản pháp luật khác (nếu có) phù hợp.
Tiếp theo là đối chiếu các hành vi thực tế với hành vi vi phạm được mô tả trong quy định của pháp luật (có thể 1 hoặc nhiều văn bản pháp luật), để khẳng định hành vi thực tế đó có phải là hành vi vi phạm pháp luật được pháp luật quy định hay không; để đánh giá tính chất mức độ của hành vi vi phạm có thể phải đối chiếu thêm với quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các hành vi đó.
Một vấn đề cũng rất quan trọng là phải đánh giá xem hành vi đó có thuộc thẩm quyền xử lý trong phạm vi công vụ không. Vì nhiều khi trong một vụ vi phạm, người vi phạm có nhiều hành vi vi phạm, các hành vi vi phạm thuộc nhiều lĩnh vực quản lý, thuộc thẩm quyền xử lý của nhiều chủ thể quản lý, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật (Nghị định) khác nhau. Hoặc có thể chỉ có một hành vi nhưng nếu không nắm vững các quy định pháp luật, đánh giá không đúng tính chất của hành vi vi phạm sẽ dẫn đến nhầm lẫn lĩnh vực pháp luật điều chỉnh và xác định sai thẩm quyền.
Nếu đủ căn cứ khẳng định có hành vi vi phạm và hành vi vi phạm thuộc thẩm quyền giải quyết (có thể là thẩm quyền lập biên bản hoặc thẩm quyền ra quyết định xử lý) thì lựa chọn tiếp các quy định pháp luật về thủ tục xử lý.
Bước 3: Lập biên bản vi phạm hành chính.
Khi đủ cơ sở để khẳng định có hành vi vi phạm, có căn cứ pháp lý áp dụng thì chủ thể có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính. Biên bản vi phạm chính là kết quả của áp dụng pháp luật cho một trường hợp cụ thể, chính thức ghi nhận sự tồn tại của một hành vi vi phạm pháp luật và căn cứ pháp lý để xác định hành vi đó.
Trong trường hợp xác định hành vi vi phạm khi giải quyết khiếu nại, khiếu kiện thì cần kiểm tra tính hợp pháp của biên bản vi phạm hành chính đã được lập trong quá trình xử lý vi phạm hành chính.
Bước 4: Trường hợp biên bản vi phạm hành chính có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính xác các nội dung quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính thì phải tiến hành xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 59 của Luật Xử lý vi phạm hành chính để làm căn cứ ra quyết định xử phạt. Việc xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính được lập thành biên bản xác minh. Biên bản xác minh là tài liệu gắn liền với biên bản vi phạm hành chính và được lưu trong hồ sơ xử phạt.
Bước 5: Ra quyết định xử phạt.
Việc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính cần tuân thủ các quy định tại Điều 67 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
1. Trường hợp một cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính mà bị xử phạt trong cùng một lần thì chỉ ra 01 quyết định xử phạt, trong đó quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm hành chính.
2. Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng cá nhân, tổ chức.
3. Trường hợp nhiều cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính khác nhau trong cùng một vụ vi phạm thì có thể ra 01 hoặc nhiều quyết định xử phạt để quyết định hình thức, mức xử phạt đối với từng hành vi vi phạm của từng cá nhân, tổ chức.
4. Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày ký, trừ trường hợp trong quyết định quy định ngày có hiệu lực khác